Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài kí Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan
Bài làm
Văn bản nhật dụng này cung cấp cho chúng ta những thông tin bổ ích về một danh lam thắng cảnh của thủ đô. Những hiểu biết ấy có thể còn sơ sài, nhưng có lẽ ấn tượng mà bài viết này mang lại chủ yếu là một cách nhìn riêng, một cảm nhận riêng.
Cả thông tin và cảm nhận ấy giúp ta hiểu biết và mến yêu, dù mới chỉ là bước đầu về cây cầu Long Biên với tư cách là một chứng nhân lịch sử. “Chứng nhân” và “chứng tích” khác nhau chính là ở chỗ ấy, ở chỗ là cây cầu đã đi vào lịch sử “đau thương và anh dũng của thủ đô Hà Nội” thân yêu, đã thân thiết với trái tim hàng chục triệu người từ Nam đến Bắc. Bài văn viết theo thể loại bút kí, từ nhận xét khái quát, nó lần theo dấu vết thời gian, và cuối cùng đọng lại với cảm nghĩ bắc cầu, không phải một thứ cây cầu “dải yếm” cho những cặp tình nhân trong ca dao thuở trước mà cho mọi du khách các phương trời gần lại với đất nước Việt Nam.
1. Bài viết mở đầu bằng một nhận xét khái quát có tính chất định hình ở hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất là lai lịch (vị trí, thời gian thi công, tác giả thiết kế), còn cấp độ thứ hai, cấp độ lịch sử: cây cầu đã song hành cùng một thế kỉ đã qua, đã “chứng kiến bao sự kiện” buồn vui, còn mất của một dân tộc “đau thương và anh dũng”! Hàm lượng trí tuệ và tâm hồn dồn nén vào từng chữ, từng câu như sự khai mở tâm tình. Biện pháp so sánh ở đây nhằm tôn vinh cây cầu mà dư âm còn mãi với lòng người đến mức không một thứ cây cầu nào dù hiện đại đến đâu có khả năng thay thế. Hai cấp độ trên đây đan cài vào nhau chạy dọc toàn bài, độ đậm nhạt có chỗ không đồng đều, điều ấy còn tuỳ thuộc vào yêu cầu khách quan của việc thuyết minh, miêu tả, vào hoài niêm từ kí ức chủ quan của người viết hiện về. Nhân vật đóng vai sẽ có sự luân chuyển cho nhau: lúc ở ngôi thứ ba, khi thì ngôi thứ nhất cũng là vì thế.
2. Cầu Long Biên khi mới khánh thành, đó là một sự kiện. Nó mang ý nghĩa hai mặt của tấm huân chương, về vẻ thở mộng của cây cầu khi nhìn nớ từ xa, ta liên tưởng đến một dải lụa uốn lượn, về biểu tượng của một nền công nghiệp phát triển, thì hiển nhiên nó được coi là “một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt”. Còn mặt trái của cái kì công có một không hai lúc đó trên đất nước Việt Nam, có một cái gì không sạch sẽ (xuất phát từ mục đích khai thác thuộc địa của bọn thực dân), thậm chí còn đáng căm thù (hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu). Giọng văn thuyết minh còn tiếp tục dưới dạng mô tả: cầu Long Biên có ba tuyến đường: đường sắt, đường ô tô và đường bộ. Nếu lấy tiêu chí của một cây cầu hiện đại của thế kỉ XXI nhìn vào thì những kích thước tưởng như lớn lao thời ấy “chỉ hợp với thời kì mà phương tiện đi lại còn ít, chủ yếu là các loại xe thô sơ”. Nhưng dường như để bù đắp vào những thiếu hụt còn đáng phàn nàn trên đây là bao nhiêu kỉ niệm hiện về. Tính hồi kí đã thay cho bút kí. Cầu Long Biên với các thế hệ học đường là những dòng chữ nhập tâm trước khi đến lớp. Câu thơ được nhớ dù chưa phải là thơ hay nhưng nó vẫn ấp ủ tâm hồn bao nhiêu đứa trẻ thơ ngây. Còn lớn hơn một chút, chiếc cầu quen thuộc ấy đã có sức nối liền hai bờ tâm tưởng giữa thế giới của cái màu xanh cần lao bình dị của bãi mía, nương dâu phía Gia Lâm với thế giới của những ánh đèn Hà Nội đầy quyến rũ và khát khao. Trong mảnh kí ức xa xôi trở về, có một điểm nhấn: đầu năm 1947, Trung đoàn Thủ đô rút khỏi thủ đô với hào khí ngất trời.
Đoạn văn nói về cây cầu mà như những lời tâm sự. Từ ngữ trong đoạn văn có ý nghĩa biểu cảm khá cao: say mê ngắm nhìn, không lúc nào chán mắt, yêu thương và yên tĩnh, quyến rũ và khát khao. Nó tri âm với những tâm hồn ưu tư và mơ mộng. Thời kì chống Mĩ oanh liệt, cầu Long Biên nhiều lần bị trọng thương khi trở thành “mục tiêu ném bom dữ dội nhất của không lực Hoa Kì”. Ngôn ngữ thuyết minh trở lại với những con số tàn nhẫn khách quan: đợt thứ nhất cầu bị đánh mười lần, đợt thứ hai bốn lần, lần cuối cùng, chiếc cầu bị ném bom la-de. Nhưng những con số trên đây là những con số biết nói, vì tiếng nói của người thuyết minh là tiếng nói của người trong cuộc. Chẳng hạn như giọng văn căm phẫn, bi thương mà tự hào vô hạn sau đợt máy bay đánh lần thứ hai: “Những ngày ấy từ phía Cầu Đất nhìn lên, tôi thấy chiếc cầu rách nát giữa trời. Những nhịp cầu tả tơi như ứa máu, nhưng cả cây cầu vẫn sừng sững giữa mênh mông trời nước”. Còn sau đó, năm 1972, chiếc cầu bị đánh bom la-de, được kổ lại bằng một giọng xót xa tiếc muối: “Tôi chạy lên cầu ngay khi tiếng bom vừa dựt. Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như mình đứt từng khúc ruột”. Tiếng nói của người thuyết minh chuyển từ địch hoạ sang thiên tai không phút ngập ngừng, nhằm gia cố cho cây cầu một phẩm chất vững chãi, kiên trung. Vì vẫn là nó giữa mênh mông nước lũ cuốn chìm bao màu xanh, bao làng mạc trù phú, “chiếc cầu như chiếc võng đu đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”.
3. “Bây giờ cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường”, câu văn nhắc lại đến lần thứ hai với giọng văn thật là tỉnh táo. Giống với nguy cơ lần thứ nhất khi “Ngang sông Hồng đã có cầu Thăng Long, cầu Chương Dương sừng sững”. Và còn nhiều nguy cơ tiếp theo “Rồi sẽ còn có những chiếc cầu khác hiện đại hơn nữa vượt sông Hồng”. Nhưng cụm từ ở đoạn mở đầu ví cầu Long Biên “như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng” đã được tôn vinh lần thứ hai bằng cụm từ thay thế “tôi vẫn thường đưa những đoàn khách du lịch nước ngoài đến thăm cầu Long Biên”. Đây là một thử nghiệm nhằm chứng minh cho sự vĩnh hằng của cầu Long Biên bằng cách biến đổi nội dung của lời thuyết minh có tính cách chủ quan sang sự đánh giá vô tư, khách quan của người ngoài cuộc. Sự kiểm chứng này đã được xác nhận hiển nhiên: “Họ trầm ngâm nện từng bước chân xuống mặt cầu. Họ đứng ở nhiều góc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu lịch sử”. Như thế là khoảng cách xa xôi giữa người Hà Nội và những du khách mới biết Hà Nội lần đầu đã rút ngắn lại đáng kể. Bởi vậy, câu kết bài viết là một dự cảm lạc quan, khi người thuyết minh vé cầu Long Biên biết rằng: bằng tình yêu cây cầu của mình, một cây cầu hữu nghị sẽ hiện ra, nó sẽ làm cho du khách “ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam” trong thời kì lịch sử mới.