Home / Văn mẫu THCS / Văn mẫu lớp 6 / Vượt thác ngữ văn 6

Vượt thác ngữ văn 6

Vượt thác ngữ văn 6

Hướng dẫn

I. ĐỀ LUYỆN TẬP

Đề 1. Hãy giới thiệu một vài câu văn hoặc đoạn văn trong bài “Vượt thác” được Võ Quảng sáng tạo nên bằng biện pháp nghệ thuật nhân hoá hoặc so sánh.

Đề 2. Phân tích và nêu cảm nghĩ qua cảnh “Vượt thác” trong tác phẩm “Quê nội” của Võ Quảng.

Đề 3. Cảm nhận của em về dòng sông Thu Bồn và cảnh sắc đôi bờ sông từ Hòa Phước đến Phường Rạnh

Đề 4. Cảm nghĩ của em về nhân vật dượng Hương Thư và cảnh vượt thác Cổ Cò qua bài “Vượt thác” trích trong tác phẩm “Quê nội” của Võ Quảng.

II. BÀI VĂN TỰ LUẬN

Đề 1. Hãy giới thiệu một vài câu văn hoặc đoạn văn trong bài “Vượt thác” được Võ Quảng sáng tạo nên bằng biện pháp nghệ thuật nhân hoá hoặc so sánh.

Trang văn “Vượt thác” của Võ Quảng đã để lại cho người đọc bao ấn tượng đẹp về cảnh hùng vĩ, thơ mộng của dòng sông Thu Bồn, về cảnh vượt thác Cổ Cò của dượng Hương Thư.

Võ Quảng đã sử dụng sáng tạo biện pháp nghệ thuật nhân hoá và so sánh để viết nên nhiều câu văn, đoạn văn rất đặc sắc.

Dưới đây là một số câu văn, đoạn văn tiêu biểu:

– Cánh buồm nhỏ căng phồng. Thuyền rẽsóng lướt hon bon như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp.

– Càng về ngược, vườn tược càng um tùm. Dọc sông, những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước. Núi cao như đột ngột hiện ra chắn ngang trước mặt. Đã đến Phường Rạnh.

– Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt. Thuyền cố lấn lên. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắt chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghi trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ.

– Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước. Qua nhiều lớp núi, đồng ruộnq lại mở ra. Đã đến Trung Phước.

Đề 2. Phân tích và nêu cảm nghĩ qua cảnh “Vượt thác” trong tác phẩm “Quê nội” của Võ Quảng.

Cảnh “Vượt thác” trích từ chương XI truyện dài “Quê nội” của nhà văn Võ Quảng. Con sông được nói đến là sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam. Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân làng Hòa Phước chủ trương xây trường học cho con em mình. Dượng Hương Thư được cắt cử đưa thuyền lên Dùi Chiêng mua gỗ đem về xây trường học. Đoàn đi Dùi Chiêng có bốn người: Dượng Hương Thư, chú Hai Quân và hai thiếu niên là Cù Lao và Cục. Cảnh vượt thác Cổ Cò được miêu tả và cảm nhận qua cảm xúc và tâm hồn của Cục. Đây là lần đầu tiên trong đời chú, một chuyến lên rừng, vượt thác đầy háo hức và thú vị. Chất thơ trên trang văn Võ Quảng dào dạt qua cảnh “Vượt thác” này.

Xem thêm:  Cảm nhận về tâm trạng của người mẹ trước ngày khai trường của con trong bài cổng trường mở ra của tác giả Lí Lan.

1. Cảnh xuất phát rất gợi. Thuyền trưởng – dượng Hương “nhổ sào” khi “gió nồm vừa thổi”. Hình ảnh cánh buồm rất đẹp, đầy khí thế: “Cánh buồm nhỏ căng phồng”. Đó là cảnh “buồm căng gió lộng”.Con thuyền được nhân hóa “đang nhớ núi rừng” nên “rẽsóng lướt bon bon”, như nóng ruột “phải lướt cho nhanh để về cho kịp”. Đó cũng là tâm trạng háo hức của chú bé Cục trong cuộc “viễn du” này.

2. Con thuyền ngược dòng, cảnh sắc thiên nhiên nối tiếp xuất hiện. “Ngã ba sông chung quanh là những bãi dâu trải ra bạt ngàn đến những làng xa tít”. Tác giả không nói đến chân trời, đến màu xanh, đến mênh mông của dòng sông mà ta vẫn cảm nhận được. Một miền quê trù phú trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa hiện ra gợi lên sự ấm no thanh bình. Tâm hồn mỗi chúng ta bâng khuâng liên tưởng. Một câu cổ thi: “Ngàn dâu xanh ngắt một màu…” (Chinh phụ ngâm). Một cảnh sắc làng quê bên hữu ngạn sông Đuống: “Xanh xanh bãi mía bờ dâu…” (Hoàng Cầm). Hoặc là ngã ba con sông Thâm, quê hương nhà thơ Huy Cận thuộc Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh:

“Tới ngã ba sông, nước bốn bề,

Nửa chiều gà lạ gáy bên đê.

Làng xa lặng lẽ sau tre trúc;

Bến cũ thuyền em sắp ghé về…”.

Gợi mở liên tưởng là một nét đẹp trong câu văn xuôi của Võ Quảng. Do đó, chất thơ từ cảnh vật, từ tâm hồn đồng hiện. Bé Cục nhìn thấy bao la cảnh lạ. Những con thuyền xuôi dòng “chất đầy cam tươi, dây mây, dầu rái”. Có những thuyền “chở mít, chở quế”. Con sông Thu Bồn là mạch máu, là nguồn sống xứ Quảng. Vì chở đầy, chở nặng lâm thổ sản, nên “thuyền nào cũng xuôi chậm chậm”. Một cuộc sống ấm no, một miền rừng hào phóng… Càng ngược dòng sông, cảnh sắc sông núi càng đầy sức sống, hữu tình nên thơ. Vườn tược tốt tươi “um tùm”. Những chòm cổ thụ “dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước”. Cổ thụ được nhân hóa gợi tả vẻ đẹp hùng vĩ, thâm nghiêm của chốn đại ngàn rừng thiêng, rừng thẳm. Gần 200 năm về trước, một nữ sĩ tài ba đã viết:

“Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ”.

(Bà Huyện Thanh Quan)

Đã sắp đến chân thác rồi. Lòng sông như thắt lại. Tầm mắt người đi thuyền bị thu hẹp dần. “Núi cao như đột ngột hiện ra chắn ngay trước mặt”. Đó là lúc dượng Hương, chú Hai Quân, bé Cù Lao, bé Cục đã đưa con thuyềnngược dòng Thu Bồn đến Phường Rạnh. Mọi người, nhất là bé Cục đã “Đi một đoạn đàng học một sàng khôn”, đã nhìn thấy bao cảnh lạ của quê hương.

Xem thêm:  Phân tích người mẹ trong Cổng trường mở ra của Lý Lan

3. Phần tiếp theo nói về cảnh vượt thác cổ Cò. Cuộc vượt thác thực sự là một cuộc chiến đấu căng thẳng, dữ dội. Vốn nhiều kinh nghiệm vượt thác băng ghềnh, vị thuyền trưởng “sai nấu cơm ăn để được chắc bụng”,phải chuẩn bị vì “nước còn to”, “phải chống liền tay không phút hở”. Vũ khí là con thuyền và ba chiếc sào tre đầu bịt sắt. Dòng thác thật đáng sợ: “Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn”. “Chảy dứt đuôi rắn” là cách nói so sánh của dân gian gợi tả dòng thác phóng từ cao xuống, nước chảy mạnh và xiết, cuồn cuộn như xoắn lại, như đứt tung ra. Dượng Hương Thư là người chỉ huy cuộc vượt thác trông thật đẹp, vẻ đẹp oai phong, gân guốc, mạnh mẽ. Người thì “đánh trần”. Động tác rất nhanh và mạnh: “co người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng “soạc!”.Tư thế rất dẻo dai cường tráng: “ghì chặt trên đầu sào, lấy thế trụ lại,…”. Chiếc sào “conglại”. Dượng Hương Thư đã “giúp cho chú Hai và thằng Cù Lao phóng sào xuống nước”. Giữa dòng thác “nước bị cản văng bọt tứ tung”, ba thủy thủ đã chèo chống cật lực, mà có lúc “thuyền vùng vằng chực trụtxuống, quay đầu chạy về lại Hòa Phước”.Con thuyền được nhân hóa để cực tả cuộc vượt thác vô cùng gian truân, vất vả, cả ba tay chèo rất thiện nghệ, phối hợp nhịp nhàng: “Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt”. “Nhanh như cắt” là thành ngữ gợi tả sự nhanh nhẹn, mạnh mẽ, sắc bén; những con sào lao xuống, phóng xuống, rút lên liên tục rất nhanh và dứt khoát. Dượng Hương Thư được đặc tả qua hàng loạt chi tiết như những nét khắc, nét tạc: Các bắp thịt thì “cuồn cuộn”, hàm răng thì “cắn chặt”, quai hàm thì “bạnh ra”, cặp mắt thì “nảy lửa”,… Đó là hình ảnh một vị thuyền trưởng rất dũng mãnh, quyết đoán và tài ba, không chịu lùi bước trước dòng thác mạnh, đã làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên. Trong sinh hoạt đời thường, dượng Hương hiền lành, khiêm tốn: “nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai nói cũng vâng vâng dạ dạ”. Cảnh vượt thác đã phát lộ thêm một nét đẹp tính cách của dượng. Tác giả “Quê nội” đã sử dụng hai hình ảnh so sánh thoát sáo: “Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc”, “như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”để ca ngợi vẻ đẹp của một con người chân chính trong lao động. Và đó là cảm nghĩ, lòng kính trọng, sự ngưỡng mộ của bé Cục đối với Dượng Hương Thư thân thiết của mình. Trong “Quê nội”, nhà văn Võ Quảng hai lần tả cảnh vượt thác băng ghềnh, cả hai lần đều ấn tượng. Sau nửa thế kỉ, đọc trang văn của Võ Quảng, tuổi thơ gần xa cảm thấy mình đang cùng Cù Lao và Cục ngược sông Thu Bồn, vượt thác, thăm thú sông núi đại ngàn xứ Quảng. Ta thấy, tác giả sống hồn nhiên, sống hết mình với tuổi thơ, với trang văn của mình.

Xem thêm:  Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng

Vượt qua thác Cổ Cò thì chiều tối. Một ngày vượt thác vất vả đã dần trôi qua. Chú Hai “vứt sào, ngồi xuống thở không ra hơi”. Dòng sông Thu Bồn ở vùng Trung Phước “cứ nhảy quanh co dọc những núi cao sừng sững”. Sông nhưhẹp lại. Nước sông cuồn cuộn, không chảy băng băng mà là “nhảy quanh co”, như đang múa lượn. Một lần nữa, tác giả lại nói về cổ thụ tạo nên một so sánh – liên tưởng thú vị: “Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước”. Rừng xanh như đang vẫy gọi. Chốn đại ngàn với núi cao, thác hiểm không còn màu sắc huyền bí mà trở nên thân thiết, gắn bó với con người miền xuôi. Qua thác Cổ Cò là đến Trung Phước, cảnh quan lại mở ra, trải dài trải rộng. Câu văn cũng nhẹ nhàng thanh thoát: “Qua nhiêu lớp núi, đồng ruộng lại mở ra”… phải dừng chân để nghỉ ngơi: “Đã đến Trung Phước”. Câu văn rút ngắn lại còn bốn chữ đầy gợi cảm. Đoàn lữ hành tạm dừng chân trên đường đi lấy gỗ.

Tuổi thơ chúng ta, ai đã được một lần nhìn thấy thác, ai đã một lần được vượt thác? Đọc trang văn “Vượt thác”, ta cảm thấy mình đang cùng Cù Lao và Cục,… vượt thác trên sông Thu Bồn hơn nửa thế kỉ trước. Đó là cái tài và cái tâm của Võ Quảng – nhà văn, nhà thơ thân thiết của tuổi thơ chúng ta. “Vượt thác” là trang hồi kí trữ tình đầy chất thơ. Chất thơ của vẻ đẹp hùng vĩ và hữu tình sông núi xứ Quảng mà trước đây cụ Phan Bội Châu từng ca ngợi là “địa linh nhân kiệt”. Chất thơ trong tâm hồn và chí khí con người: dũng cảm, phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu thiên nhiên,… Chất thơ thấm sâu vào từng câu văn, giọng văn: trong sáng, tươi đẹp, lúc thì mạnh mẽ hào hùng, lúc thì hồn nhiên thơ mộng. Cổ nhân có nói: “Thi phú dục lệ” (Thơ phú phải đẹp). “Vượt thác” là một trang văn đẹp trong giai phẩm “Quê nội”. Ta cảm thấy yêu thêm sông Thu Bồn, yêu thêm cuộc sống, yêu thêm chú Cục và Cù Lao, yêu thêm đất Quảng…

Tình yêu ấy làm ta lớn lên cùng trang văn “Quê nội” của Võ Quảng.

Theo Dethihay.com

Check Also

hoaphuong 10 310x165 - Soạn bài Cô Tô Ngữ văn 6

Soạn bài Cô Tô Ngữ văn 6

Tác giả Nguyễn Tuân luôn luôn được biết đến chính là một trong những nhà …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *