Những tiếng cười trong hai truyện cười dân gian Việt Nam Ngữ Văn 6
Hướng dẫn
Những tiếng cười giã tật
Nụ cười, tiếng cười là biểu hiện cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên của con người trong cuộc sống. Ngoài những trường hợp đặc biệt cười ra nước mắt, cười cay đắng, đau khổ, đa số chúng ta khi vui, hay bắt gặp một việc gì, nhìn thấy điều gì ngược đời, chướng mắt thì cất tiếng cười. Dân tộc Việt Nam chúng ta vốn lạc quan, thâm thuý nên rất biết cười. Trong kho tàng văn học dân gian, cha ông ta đã sáng tác cả một rừng cười, gọi là Truyện tiếu lâm, truyện cười, rừng cười ấy muôn vàn hoa lá khác nhau. Có truyện cười vui hóm hỉnh, xuề xoà để xoá đi những mệt nhọc trong lao động. Có truyện cười sâu cay, châm biếm để chế giễu, phê phán thói hư tật xấu, hoặc đả kích kẻ thù. Hai truyện Treo biển và Lợn cưới, áo mới thuộc nhóm truyện cười chế giễu, phê phán khá đặc sắc, tiêu biểu cho thể loại truyện cười và sự độc đáo, sâu sắc của tiếng cười dân gian Việt Nam. Đấy là những tiếng cười có ý nghĩa răn dạy, sửa chữa thói hư tật xấu.
1. Tiếng cười xung quanh tấm biển treo trước cửa hàng
Tấm biển ấy là công cụ quảng cáo của một nhà hàng bán cá. Biển đề: “Ở đây có bán cá tươi”, gồm bốn nội dung:
– “Ở đây”: Thông báo địa điểm cửa hàng
–“Có bán”: Thông báo hoạt động của cửa hàng
– “Cá”: Thông báo mặt hàng kinh doanh
– “Tươi”: Quảng cáo chất lượng hàng để hấp dẫn, mời gọi khách.
Cả bốn yếu tố, bốn nội dung đó đều cần thiết cho một biển quảng cáo, một cách quảng cáo bằng ngôn ngữ.
Vậy mà nhà hàng đã được bốn vị khách quý góp ý. Lần lượt từng vị, bằng thái độ (cười) và ngôn ngữ (nói) nhận xét, chỉ bảo ra vẻ chân tình, thân ái về tấm biển kia. Thoạt nghe, ý kiến từng người đều có lí. Cái lí của họ xuất phát từ những suy nghĩ, từ sự hiện diện trực tiếp bằng giác quan riêng của mình. Người nhìn, người ngửi, người chỉ coi trọng mặt hàng mà không chú ý nội dung toàn diện và ý nghĩa gián tiếp của ngôn ngữ mà nhà hàng muốn giao tiếp với tất cả mọi loại khách hàng. Nghĩa là cả bốn vị khách quý kia chỉ nhấn mạnh cái bộ phận mà coi thường tổng thể, coi thường mối quan hệ của các yếu tố. Ở một mức độ nào đấy, bốn lời phán của các vị khách kia hao hao cách sờ voi, phán về voi của mấy ông thầy bói xem voi trong truyện Thầy bói xem voi.
Chủ nhà hàng chỉ cần suy nghĩ một chút sẽ thấy mỗi vị đều có một chút phiến diện. Nhưng… buồn cười thay, ông chủ (hay bà chủ) hàng kia đã không suy nghĩ mảy may gì mà cứ “nghe nói, bỏ ngay, rồi nghe nói, bỏ ngay, lại bỏ ngay”, cuối cùng là “cất nốt cái biển”. Cứ mỗi lần “nghe nói, bỏ ngay” như thế, cái biển quảng cáo rất cần thiết kia bị lột dần, xoá dần đến độ bị… hạ bệ, xếp xó… Trước mỗi lần “nghe nói, bỏ ngay” của nhà hàng, người nghe, người đọc truyện lại bật cười. Ba lần bật cười nối nhau, cứ mỗi lần, tiếng cười lại bật lên ở cung bậc cao hơn, để rồi vang lên to nhất, thâm trầm nhất khi kết thúc câu chuyện. Cái biển bị “bỏ ngay” tới ba lần, chỉ còn mỗi chữ “cá”.
Đến đây, ta tưởng thế là cái biển thoát nạn, nhà hàng thoát nạn. Vậy mà vẫn xuất hiện vị khách quý thứ tư với lời “góp ý” quá ư buồn cười và nhà chủ vẫn “nghe nói, bỏ ngay” thì thật là đáng bật cười, tiếng cười vang to nhất. Ta cười to vì từng người góp ý thấy có vẻ hợp lí, nhưng cứ cái đà đó mà làm theo thì kết quả cuối cùng thành vô lí, cực kì vô lí. Đỉnh cao của tiếng cười đã ngân lên, dội mạnh vào chủ hàng bán cá. Đấy là người không biết suy xét trước lời góp ý, thành ra hoàn toàn mất hết chủ kiến.
Như vậy, truyện Treo biển đã tạo nên tiếng cười vui vẻ, có ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng những người thiếu bản lĩnh, thiếu suy nghĩ độc lập khi làm việc, cũng như khi nghe người khác góp ý, nhận xét. Nghệ thuật gây cười của tác phẩm này là xây dựng được những tình huống truyện đối lập từ thấp đến cao để kết thúc ở đỉnh điểm làm bật ra tiếng cười vang to nhất, có ý nghĩa nhất. Đấy cũng là đặc điểm chung của truyện cười. Truyện không chỉ giúp chúng ta bài học về phong cách sống mà còn nhắc ta về cách dùng từ, lựa chọn từ ngữ sao cho sát nghĩa, không thừa, không thiếu. Nếu đọc thêm truyện Đẽo cày giữa đường, ta cũng bật cười, nụ cười giễu cợt tương tự truyện này.
2. Tiếng cười xung quanh con lợn cưới và chiếc áo mới
Đây là câu chuyện của hai anh chàng có tính thích khoe khoang. Tính khoe khoang (khoe của, khoe danh, khoe tài, khoe chức tước,…) là thói thích tỏ ra, trưng ra cho người khác biết là mình giàu, mình tài giỏi, mình danh giá. Đó là một thói xấu. Thói xấu này thường lộ ra ở cách ăn mặc, trang sức, xây cất, bài trí nhà cửa, nói năng, giao tiếp,…. Truyện Lợn cưới, áo mới kể về hai anh chàng thích chưng diện, khoe khoang, ra điều mình có… của.
Một anh đi tìm con lợn bị xổng khi nhà anh đang chuẩn bị đám cưới. Trong tình huống gia đình bận bịu, bối rối, anh ta không tập trung tư tưởng để tìm lợn cho nhanh, cho mau mà lại nghĩ đến việc khoe khoang. Khi gặp người bạn, đáng lẽ anh chỉ cần hỏi “Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không” Hoặc có thể tả vài nét về con lợn để người nghe dễ “nhận diện”, chẳng hạn: lợn to hay nhỏ, lông trắng hay đen… Nhưng anh chàng lại nói kèm theo cụm từ “lợn cưới của tôi”. Như vậy từ “cưới” (lợn cưới) là thừa, không cần thiết, khiến người nghe dễ bật cười. Chúng ta chứng kiến sự việc, thấy rõ anh chàng lợn cưới ấy thật là… hợm của, khoe khoang, đáng cười.
Câu chuyện tiếp diễn và còn buồn cười hơn nữa là người nghe câu hỏi của anh lợn cưới lại không cười mà bình thản đáp bằng một câu làm nổ ra tiếng cười vang to. Đó là anh chàng sắm được chiếc áo mới. Có áo mới, anh không đợi ngày lễ, ngày tết, hay đi đâu đó, đem ra mặc. Anh mặc áo ngay, rồi ra đứng hóng ở cửa, đợi khách qua người ta khen. Tính thích khoe đã biến anh thành trẻ con. Trẻ con có áo mới thích được khen là tâm lí ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu mà tục ngữ đã đúc kết: “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới”. Anh áo mới trong câu chuyện tuy chưa già nhưng cũng không còn trẻ. Vậy mà anh mang tâm lí rất… trẻ con. Mặc áo rồi, anh “đứng hóng ngoài cửa, đứng mãi từ sáng đến chiều, chả thấy ai hỏi, anh ta tức lắm”. Tính kiên trì và sự bực tức của anh ta thật không đúng chỗ, đáng buồn cười. Đáng cười hơn nữa là khi nghe anh “lợn cưới” hỏi, chỉ cần trả lời ngắn gọi: “Tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua”, hoặc “Tôi đứng đây từ sáng…” anh lại dài dòng, mở đầu lời đáp bằng cụm từ: “Từ lúc tôi mặc cái áo mới này…”, thế là thành ra… thừa lời, vô duyên, đáng cười.
Đọc, nghe truyện Lợn cưới, áo mới, chúng ta được cười nhiều lần. Tiếng cười vang lên xung quanh con lợn cưới và chiếc áo mới. Của chẳng đáng là bao, mà hai anh chàng kia cứ thích khoe khoang. Thái độ và ngôn ngữ của cả hai đều quá mức, lố bịch. Điều thú vị là tác giả dân gian đã xây dựng được tình huống vừa song song vừa đối lập. Hai nhân vật giống nhau cái tính thích khoe, cũng đua nhau khoe để được người khác chú ý, khen ngợi. Nhưng rồi điều trái ngược đã xảy ra. Chả ai được khen cả, mà chỉ khiến người chứng kiến cuộc gặp gỡ và nghe những lời nói của họ, phải bật cười. Tiếng cười nổ ra ở cuối truyện vừa vang to vừa có ý nghĩa chế giễu sâu sắc. Tính hay khoe là một tính xấu nhưng lại thường xuất hiện nhiều trong cuộc sống chúng ta. Đọc và suy ngẫm về truyện này, chúng ta giật mình vì đôi khi chính bản thân ta cũng vướng tính xấu này. Cười hai anh chàng trong truyện, ta tự cười mình và nhắc mình phải sửa ngay tính thích khoe khoang, đồng thời rèn lấy tính khiêm tốn, nhún mình trong ứng xử hằng ngày ở nhà, ở trường và ngoài xã hội.
Nhìn chung, ý nghĩa, tác dụng của truyện cười là như thế. Vừa chế giễu, phê phán, mỗi truyện cười vừa nhắc nhở chúng ta tránh thói xấu, rèn luyện tính tốt. Vì thế, các nhà nghiên cứu đánh giá: truyện cười mang tính chiến đấu cao. Đó là những viên thuốc đắng, hoặc… ngọt thơm giúp con người giã tật.
Xem thêm phân tích Chùm truyện ngụ ngôn văn học dân gian Việt Nam Ngữ Văn 6 tại đây
Theo Baivanhay.com