Ăn ở với người đời đời kiếp kiếp – Tùy bút Cây tre Việt Nam Ngữ Văn 6
Hướng dẫn
Tùy bút Cây tre Việt Nam Ngữ Văn 6
Cây tre là người bạn thân thiết lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam. Với nhiều phẩm chất quý báu, nó đã trở thành biểu tượng về đất nước Việt Nam, về dân tộc Việt Nam. Toàn bộ nội dung ấy được diễn đạt trong một bài văn thể kí nghiêng về phía tuỳ bút chính luận. Cho dù là lời thuyết minh cho một cuốn phim với tất cả sự phụ thuộc vào kịch bản, người viết vẫn phát huy được bản sắc của mình bằng lối văn giàu hình ảnh và nhạc điệu. Tất cả thống nhất trong một bố cục chặt chẽ của tư duy. Đây là một trong những bài văn xuôi hiếm có của văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám.
1.Văn bản thuyết minh bắt đầu bằng một nhận xét bao trùm, có sức khái quát cho toàn bài: “Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam”, rồi ngay sau đó để chứng minh, người viết đi vào luận điểm đầu tiên: cây tre Việt Nam là loài cây độc đáo nhất trong các loài cây. Ý thức khẳng định bằng phép so sánh này đã có một cách làm trực tiếp: đặt cây tre vào vùng thiên nhiên nhiệt đới của “muôn ngàn cây lá khác nhau”. Chỉ với ba câu văn, tác giả đã thuyết phục được chúng ta ở sự trân trọng, nâng niu (cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý) nhưng là nhằm nhấn mạnh về quan hệ “thân thuộc nhất” với con người thì không gì bằng nứa bằng tre. Để tránh sự ngộ nhận, chủ quan, với cách viết dụng công và tâm huyết, ông trưng bày một hệ thống hình ảnh trùng điệp, liên hoàn có ấn tượng thị giác rất cao: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, luỹ tre thân mật làng tôi…”. Nếu hình dung cách viết này như một thứ ống kính quay phim, ta có một cái nhìn ở hai cấp độ: viễn cảnh và cận cảnh, từ xa đến gần. Riêng hình ảnhcận cảnh (luỹ tre thân mật làng tôi) làm chúng ta không khỏi bồi hồi. Ấy là chưa nói sự cất cánh của lời văn bằng nhạc, một giai điệu say sưa ở sự cân đối, hài hoà. Nếu tách nhịp, chúng ta có kết cấu 3-3, 6-6. Ngôn ngữ ấy, nhạc điệu ấy – từ cảm xúc vang lên như những bài thơ. Mạch cảm hứng dồi dào còn vắt xuống ý tiếp theo để đi vào phẩm chất. Vẫn với phương pháp so sánh, vẫn với lối văn trùng điệp, vẫn những nhịp điệu hài hoà, ta thấy hình tượng cây tre độc đáo hiện ra với lòng ham sống và sức sống dồi dào: “Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt”, và từ cái gốc ấy, nó tự vun trồng những nét đặc trưng: mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, thanh cao, chí khí. Quen thuộc với con người, lại “chí khí” như người, cây tre còn độc đáo ở sự hoá thân. Nó là cốt cách người và chỉ con người Việt Nam mới có. Đọc câu văn ấy ta bỗng giật mình: đường biên phân định giữa cây tre với con người không còn chia tách rạch ròi được nữa.
2. Ý tưởng “cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam” từ đoạn hai trở đi mới rõ. Dưới “bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn”, hiện ra toàn bộ đời sống con người từ ăn, ở, lam làm, tập quán, phong tục, buồn vui, từ dựng nhà dựng cửa, lấy vợ lấy chồng (hai trong ba việc hệ trọng: tậu trâu, cưới vợ, làm nhà), sinh ra và mất đi, “tre với mình, sống có nhau, chết có nhau chung thuỷ”. Trong đoạn văn quan trọng này, về cấu trúc có sự kết hợp đan cài giữa chiều ngang và chiều dọc. Về chiều ngang, ta nhận ra thấp thoáng mái chùa cổ kính, nền văn hoá nông tang, những công việc hằng ngày, cả những nhọc nhằn giần sàng, xay, giã. Tre chẻ lạt gói bánh chưng mỗi lần tết đến, niềm vui của trẻ thơ, phút khoan khoái của tuổi già, tre đã chia sẻ với người khăng khít, thuỷ chung. Còn về chiều dọc, nhằm gắn kết, gia cố sự bền chặt, tác giả đã nhấn mạnh yếu tố thời gian: “mái đình cổ kính”, “nền văn hoá lâu đời”, “đã từ lâu”, “đời đời, kiếp kiếp”, “đã mấy nghìn năm”. Đó chính là chiều dài bốn nghìn năm lịch sử.
Riêng về yếu tố văn hoá, nếu nghĩ cho sâu, nó không chỉ thể hiện bằng chất liệu vật thể mà còn có cả nền văn hoá phi vật thể. Đó là những câu hát, những tâm sự, cách so sánh ví von. Đoạn hai của bài có ba câu thơ thì bắt đầu bằng câu thơ của thời đại mới (“Bóng tre trùm mát rượi”). Sau đó, hình như để xâu chuỗi với tâm hồn dân tộc thì một câu thơ là tâm sự mùa màng, còn một câu nữa là khúc hát giao duyên. Câu thứ nhất, tâm sự cùng tre làm ta nhớ đến nỗi niềm của người nông dân với con trâu quen thuộc: “Trâu ơi ta bảo trâu này”.
Còn chất nhạc nếu là ưu điểm nổi bật của bài văn, thì ở đoạn này hiện ra rất rõ. Đó là cách nói có vần và nhịp điệu, nhất là nhịp điệu, chẳng hạn câu: “Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa”. Nhất là câu: “Cối xay tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc”. Có thể nói: ít có đoạn nào mà bao nhiêu tâm sự, nỗi niềm của người viết đã gửi gắm tài hoa và chắt lọc vào từng câu, từng chữ như ở đoạn này.
3.Nếu đoạn hai, nói vai trò của cây tre trong sự nghiệp dựng nước thì đoạn ba lại khẳng định vị trí của cây tre trong công cuộc giữ nước. Vì sự bất khuất, can trường vốn cũng là một thuộc tính của tre. Tác giả có nhắc tới ý của người xưa: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Đúng, ngay thẳng vốn là khí tiết, là cách ứng xử của trúc, của tre: “Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người”. Tư thế của tre là lăn xả vào cái ác dù cái ác mạnh đến chừng nào để giữ gìn non sông, đạo lí và cũng là để chung thuỷ với phẩm chất của tre. Yếu tố trữ tình một lần nữa lại được phát huy. Nhưng ở đoạn này nó còn gắn liền với tính chính luận. Để liên kết với đoạn trên cũng là để làm hiện lên một chân dung nguyên khối của cây tre, người viết luôn luôn lưu ý: “Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc”. Và kì lạ thay, nếu ở đoạn trên, chiếc cối xay tre là biểu tượng về cuộc đời lam lũ, sự chịu đựng đến mức bền bỉ, dẻo dai thì đến đây, vẫn là cây tre nhũn nhặn ấy, nó nhọn hoắt mũi tầm vông với sức mạnh của Thánh Gióng năm nào đuổi giặc Ân cứu nước.
4.Đoạn cuối của bài văn là một phác thảo về cây tre trên con đường đi tới để liên kết giữa hiện tại, quá khứ với tương lai. Đây mới là những dự cảm. Và, tuy mới chỉ là dự cảm, nhưng vì nói đến tương lai, nó thật là náo nức: “Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi…”. Sử dụng văn chương như một thứ nhạc nền nhằm thuyết minh thì sức thuyết phục của nó có cả từ lời lẫn nhạc. Bởi nó bay bổng dĩ nhiên, nhưng ở trường hợp này, nó còn là lời của câu thơ cũ, thơ của lớp người cắp sách ngày xưa. Vì vậy, thật xao xuyến, bâng khuâng, man mác. Nó – “tre già măng mọc”, nối liền với tâm hồn trẻ thơ bây giờ, và cả những ngày mai sắp tới. Và có lẽ vì là nhạc của trúc, của tre của thời đại mới, nó không còn là lời ca của những mối tình quê cai thuở ban đầu, nó là tiếng hát của lớp trẻ thơ măng mọc thẳng:
Diều bay, diều lá tre bay lưng trời…
Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời…
Đó là lời của tre, trúc hay là lời của một thời đại đang bay mà phơi phới, rộn ràng, khấp khởi? Hồi kết của đoạn văn vừa là khúc tâm tình vừa khơi gợi lời nhắn nhủ: “Các em, các em rồi đây lớn lên…”. Cây tre vật chất Việt Nam dĩ nhiên không thay thế được xi măng, sắt thép, nhưng người bạn son sắt thuỷ chung ấy ít nhất cũng là một nhân chứng chia vui. Còn “cây tre tinh thần” vẫn là bóng mát, là khúc nhạc tâm tình, là cổng chào thắng lợi. Nó vẫn bền chặt với con người, còn tri kỉ, tri âm mãi mãi. Câu văn chính luận cuối cùng như một cách đóng đinh vào ý tưởng: “Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam”.
5. Về nghệ thuật, trước hết người đọc dễ dàng nhận ra: “Cây tre Việt Nam” có phẩm chất văn chương hơn báo chí dù tác giả của nó là nhà báo hơn một nhà văn. Phẩm chất văn chương biểu hiện cái nền của cảm xúc dồi dào, tình yêu nồng nhiệt trước con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cây tre là biểu tượng tuyệt vời. Tình cảm ấy cộng với những tri thức văn hoá, văn chương đã tìm đến những hình ảnh, những nhạc điệu như một thi nhân để thổ lộ, giãi bày, diễn tả. Tuy nhiên, là một tuỳ bút chính luận, dù muốn dù không, bài văn có một tổ chức phân đoạn, phân ý rõ ràng. Cái khéo của nhà văn là tạo được mối liên kết cả bên ngoài và cả bên trong của nó. Bài văn có được sự liền mạch câu nọ nối liền câu kia, ý trên với ý dưới như dòng chảy một con sông. Đây là một chỉnh thể nghệ thuật.
Cùng với nội dung, giá trị nghệ thuật chủ yếu của bài vẫn là chất thơ văn xuôi của nó. Chất thơ ấy thể hiện trên hai mặt, một là những hình ảnh táo bạo, phong phú và hai là nhạc điệu đặc biệt của câu. Về hình ảnh độc đáo, người viết tạo ra bằng biện pháp nhân hoá trong nhiều trường hợp. Thực ra cái cách này không mới. Ca dao từng đã có câu: “Giã ơn cái cối cái chày”, “Giã ơn cái cọc bờ ao”. Nhưng sáng tạo của Thép Mới là sử dụng biện pháp ấy một cách tối đa, có hệ thống và đầy hiệu quả: “Tre với người như thế đã mấy nghìn năm…”. Sự xuyên suốt theo kiểu tính đếm ấy sâu nặng nhân tình như một thứ lạt mềm buộc chặt để ai đó trong chúng ta chỉ cần thao thức một chút là không khỏi rưng rưng về cái nơi sinh thành gốc đa, giếng nước. Còn về nhạc điệu của lời văn, có gì xao xuyến hơn những câu văn đầy tính hoà thanh của bằng trắc, của cách ngắt nhịp khi dồn dập trào dâng, lúc lắng sâu, nỉ non, thủ thỉ. Câu văn có lúc căm giận đến nghẹn ngào: “Một thế kỉ “văn minh”, “khai hoá” của thực dân cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người”, lúc trầm tư như chiêm ngưỡng một bức tranh thuốc nước: “Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính”.
Với thành công về nhiều mặt như đã phân tích trên đây, Cây tre Việt Nam là một áng văn xuôi đặc sắc.
Xem thêm hướng dẫn phân tích Bài kí Tô Cô của Nguyễn Tuân Ngữ Văn 6 tại đây.
Theo Baivanhay.com