Soạn bài thương vợ: Thương vợ do Tú Xương sáng tác thuộc môn Ngữ văn lớp 11 học kỳ 1. Bài viết soạn bài thương vợ bao gồm bài soạn và bài văn mẫu tuyển chọn hay giới thiệu với các bạn để tham khảo về sự lam lũ của người vợ tần tảo sớm hôm nuôi chồng ăn học giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.
Soạn bài thương vợ 01
1. Kiến thức cơ bản – Soạn bài thương vợ
Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường gọi là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Tú Xương có cá tính sắc sảo, phóng túng, khó gò vào khuôn sáo trường quy, nên dù có tài nhưng tám lần thi vẫn chỉ đỗ tú tài. Tú Xương sinh vào giai đoạn giao thời, xã hội có nhiều thay đổi. Xã hội phong kiến già nua chuyển mình trở thành xã hội thực dân phong kiến. Hàng ngày những điều ngang tai trái mắt cứ đập vào mắt ông, gây phản ứng trong tâm trạng. Và thể hiện thành hai nội dung lớn trong thơ ông: trữ tình và trào phúng.
Thương vợ được cấu tạo làm bốn phần theo kết cấu đề, thực, luận, kết với kết cấu chặt chẽ, đây là một bài thơ Nôm thành công cả về ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Ngôn ngữ Nôm bình dân, hình ảnh thơ gần gũi với dân gian và đời sống. Câu đề và câu thực là suy nghĩ của nhà thơ về sự vất vả nhọc nhằn kiếm sống của người vợ, qua đó thể hiện sự cảm thông và trân trọng.
Câu luận ngợi ca đức hy sinh của người vợ. Câu kết là tiếng chửi đời cay nghiệt của một con người bị cuộc sống biến thành vô tích sự. Bài thơ ngợi ca đức hy sinh của những người phụ nữ và sự cảm thông thấu hiểu của người chồng. Ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài thơ sâu sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn bền vững. Qua bài thơ này, Tú Xương đã xây dựng hình tượng nghệ thuật đẹp về người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh, chịu thương chịu khó hết lòng vì gia đình.
2. Rèn kỹ năng – Soạn bài thương vợ
a. Hình ảnh người vợ hiện lên trong bốn câu thơ đầu là một người phụ nữ đảm đang tần tảo sớm hôm nuôi chồng, nuôi con.
Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh, từ ngữ đặc sắc để thể hiện nỗi vất vả của vợ và sự cảm thông của mình đối với sự vất vả của người vợ. Đó là những từ “quanh năm”, “mom sông”, “lặn lội thâm cò”, “eo sèo mặt nước”, “nuôi đủ”, với các thành ngữ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa”, hình thức đối “năm con – một chồng”
Hình ảnh người vợ lặng lẽ làm việc nuôi chồng nuôi con với một đức hy sinh vô cùng lớn lao là hình tượng nổi bật trong bài thơ.
b. Câu hai có sắc thái tự trào sâu sắc khi tác giả đặt người chồng vào một bên đòn gánh trên đôi vai người vợ và bên kia là năm con.
Người chồng là một bên của gánh nặng lo toan ấy. Dường như đó là lời tự trách chua cay. Vì gia đình, vì người chồng có quá nhiều nhu cầu ấy mà người vợ vất vả hơn. Người chồng vô tích sự chẳng những không giúp vợ nuôi con mà còn làm cho gánh nặng gia đình của người vợ nặng hơn rất nhiều.
c. Câu 5 – 6:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Câu thơ khắc họa hình ảnh bà Tú trong mối quan hệ với chồng con. Hình thức như là lời độc thoại nội tâm của bà Tú nhưng thực ra chính là lời của ông Tú. Điều đó thể hiện rõ ông hiểu nỗi vất vả của vợ, cảm thông và trân trọng bà Tú đến nhường nào.
Hai thành ngữ xuất hiện trong hai câu thơ đều có nghĩa diễn tả sự vất vả của người phụ nữ phải nuôi chồng nuôi con. Và cũng ở đây, một lần nữa, người chồng thể hiện sự trân trọng đối với người vợ. “âu đành phận”, “dám quản công” không phải là sự cam chịu của người vợ mà đó là lời của nhân vật trữ tình – người chồng. Hình ảnh người vợ cứ lặng lẽ làm việc nuôi chồng nuôi con với một đức hy sinh vô cùng lớn lao đã là hình tượng nổi bật trong bài thơ. Hai câu thơ đã khắc họa đức tính nổi bật của bà Tú đó là đức hy sinh, chịu thương chịu khó, cả đời sẵn sàng vì chồng con. Bà Tú là hình tượng đẹp về người phụ nữ Việt Nam.
d. Bài thơ kết thúc bằng câu chửi.
Ai chửi? Tất nhiên theo mạch cảm xúc của bài thơ thì đây là lời của nhân vật trữ tình. Từ cảm thông đến “Thương vợ” mà giận mình, giận đời. Người đàn ông, người chồng, con người có nhân cách ấy, trước vất vả nhọc nhằn của người vợ đã cất lên lời chửi. Như tự chửi mình nhưng là chửi đời.
Chửi “thói đời ăn ở bạc” đã biến những ông chồng không thành kẻ hư hỏng thì cũng thành người vô tích sự. Đó là câu chửi đời và cũng là lời tự trách mình của một nhà Nho có nhân cách. Ông trách mình là người chồng hờ hững, nhưng bài thơ với những tâm sự sâu sắc đã chứng tỏ ông chẳng hề hờ hững chút nào.
e. Bài thơ thể hiện tình cảm trân trọng, lòng biết ơn của ông Tú đối với người vợ tần tảo sớm hôm của mình.
Tự nhận là một người chồng vô tích sự, song ông Tú là một người chồng biết tự trọng, một người biết cảm thông chia sẻ và thấu hiểu nỗi vất vả của người vợ. Điều đó đã giúp Tú Xương đóng góp cho văn học Việt Nam một hình tượng đẹp về người phụ nữ phương Đông. Ngôn ngữ dung dị, đời thường, sử dụng nhiều yếu tố dân gian, với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài thơ hay có giá trị nhân văn sâu sắc.
Soạn bài thương vợ 02
Câu 1: Hình ảnh bà Tú qua bốn câu thơ đầu
– Hai câu đầu đã giới thiệu được hình ảnh bà Tú gắn với công việc mưu sinh.
Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng
+ Công việc là buôn bán. Thời gian làm việc là “quanh năm”, là ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Mom sông là vùng đất nhô ra sông, nơi đầu sóng ngọn gió.
–> Đây là hình ảnh gợi lên hoàn cảnh kiếm sống lam lũ, vất vả với một không gian sinh tồn bấp bênh, khó khăn.
– Trên cái nền không gian và thời gian ấy, cuộc mưu sinh đầy khó khăn của bà Tú hiện lên rất rõ:
Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông
Hình ảnh thân cò là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho phụ nữ trong xã hội xưa. Có điều, Tú Xương vừa tiếp thu ca dao nhưng vừa có những sáng tạo độc đáo. Dùng từ thân cò làm ý thơ mang tính khái quát cao hơn, nó giúp gợi lên cả một số kiếp, nỗi đau thân phận. Có lẽ vì thế mà tình thương của Tú Xương dành cho bà Tú trở nên sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, từ láy lặn lội, eo sèo được đảo lên trước làm nổi bật hình ảnh lam lũ, vất vả của bà Tú.
Câu 2: Đức tính cao đẹp của bà Tú
Vẻ đạp của bà Tú trước hết được cảm nhận ở sự đảm đang, tháo vát, chu toàn với chồng con:
Nuôi đủ năm con với một chồng
Từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Oái oăm hơn, câu thơ chia làm hai vế thì vế bên này (một chồng) lại cân xứng với cả gánh nặng bên kia (năm con). Câu thơ cho thấy Tú Xương ý thức rõ lắm nỗi lo của vợ và sự khiếm khuyết của mình nữa.
Ở bà Tú sự đảm đang tháo vát đi liền với đức hi sinh, thể hiện ở việc bất chấp gian khó, chạy vạy buôn bán để nuôi chồng con. Song dường như những lời thơ miêu tả còn chưa đủ, Tú Xương còn bình luận tiếp:
Năm nắng mười mưa dám quản công
Thành ngữ “năm nắng mười mưa” vốn đã có hàm nghĩa chỉ sự gian lao, vất vả nay được dùng trong trường hợp của bà Tú nó còn nổi bật được đức chịu thương, chịu khó hết lòng vì chồng con của bà Tú. Nhưng với bà Tú đó lại là niềm hạnh phúc của một người vợ vì gia đình. Tú Xương đã thay vợ mình nói lên điều này.
Câu 3: Lời “chửi” trong hai câu thơ cuối là lời Tú Xương tự rủa mát mình:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cùng như không.
Hai câu cuối chỉ ra hai nguyên nhân gây nên nỗi khổ của vợ: ấy là mình và thói đời. Sự hờ hững của ông cũng là một biểu hiện của thói đời ấy. Đó cũng là biểu hiện của việc vận dụng khẩu ngữ, lời ăn, tiếng nói của dân gian để khắc họa hình ảnh bà Tú – một người phụ nữ của gia đình, của xã hội. Lời chửi ẩn sâu trong tâm khảm sự thương yêu và có cả ngậm ngùi, chua xót đến đắng lòng.
Trong xã hội trọng nam khinh nữ, việc một nhà nho như Tú Xương không những nhận ra sự vô dụng của mình mà còn trách mình một cách thẳng thắn, đó chính là một biểu hiện trong nhân cách nhà thơ qua tiếng chửi trong bài thơ.
Câu 4: Nỗi lòng của nhà thơ
Nỗi lòng thương vợ của Tú Xương được thể hiện thành công qua bài thơ. Tựa đề Thương vợ chưa thể hiện được đầy đủ tình thương của nhà thơ đối với vợ cũng như chưa toát lên được nhân cách của nhà thơ. Tú Xương không chỉ thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ lên án thói đời mà còn tự trách mình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng của nhà thơ đối với bà Tú.
Luyện tập
Phân tích sự vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương.
“Thương vợ” là một trong những bài thơ mà Tú Xương vận dụng một cách rất sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian.
– Về hình ảnh: Trong ca dao, hình ảnh con cò có khá nhiều ý nghĩa: có khi nói về thân phận người phụ nữ lam lũ, vất vả, chịu thương chịu khó; có khi lại tượng trưng cho thân phận người lao động với nhiều bất trắc thua thiệt. Như thế, con cò trong ca dao vốn đã gợi nhiều cay đắng, xót xa. Song dường như ứng vào nhân vậ cụ thể là bà Tú thì nó lại càng gợi sự xót xa, tội nghiệp nhiều hơn. Hơn thế nữa so với từ “con cò” trong ca dao thì từ “thân cò” của Tú Xương mang tính khái quát cao hơn, do vậy mà tình yêu thương của Tú Xương cũng thấm thía và sâu sắc hơn.
– Về từ ngữ: thành ngữ “năm nắng mười mưa” được vận dụng một cách rất sáng tạo. Cụm từ “nắng mưa” chỉ sự vất vả. Các từ năm, mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra rồi kết hợp với “nắng, mưa” tạo nên một thành ngữ chéo. Hiệu quả của nó vừa nói lên sự vất vả, gian lao, vừa thể hiện đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng con của bà Tú.
Tư liệu tham khảo
1. Về tác giả
“… Có khi tôi đã thấy giật mình cho Tú Xương, khi tôi giả tỉ thơ Tú Xương không có cái khía trữ tình, cái hơi lãng mạn của nó, mà lại chỉ rặt những “Cống hỉ – mét xì – Thôi thôi lạy mợ xanh căng lạy…”. Thật tôi thấy chối tai đấy. ở ai thế nào tôi không hay, nhưng ở tôi, khi mà Tú Xương cứ hiện thực chỉ có như vậy thôi, cái gốc hiện thực ấy mà không có cái ngọn trữ tình, cái tán lãng mạn ấy, thì Tú Xương cũng tắt gió trong tôi từ lâu rồi và đã bay ra khỏi tôi lúc nào không biết chừng.
Cho nên ai muốn nói gì đến Tú Xương thì cứ nói ra, tôi đều coi trọng (…) nhưng tôi vẫn cho rằng thơ Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái chân phải trữ tình mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đà thơ là ở chân phải và Tú Xương đã băng được mình thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn trữ tình.”
(Nguyễn Tuân, Văn nghệ tháng 5, 1961)
2. Về tác phẩm
“Thái độ của Tú Xương đối với vợ là “vuốt râu nịnh vợ con bu nó” thật cởi mở, hồn nhiên, đầy tình nghĩa. Đã có mấy ai trên trần gian, cổ kim Đông Tây này như Tú Xương yêu vợ, quý vợ, đùa với vợ bằng cách đưa vợ ra mà làm văn tế sống! Văn tế kể lai lịch, chân dung, đức hạnh, nghề nghiệp của vợ như thế này, vợ nghe không nở ruột, nở gan sao được:
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ,
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ!
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám cho
rằng béo rằng gầy
Người ung dung, tính hạnh khoan hòa, chỉ một bệnh
hay gàn hay dở
Đầu sông, bãi bến, đua tài buôn chín bán mười.
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào rơi nói thả.
(Văn tế sống vợ)
Tú Xương làm thơ, mà thơ với Tú Xương cũng là một thứ đùa vui, âu yếm vợ cho khuây khỏa nỗi vất vả quanh năm.
Tú Xương cảm nhận sâu sắc công ơn của vợ đối với bố con ông, đặc biệt là với ông. Tú Xương ghi công vợ thật rạch ròi, chu đáo, không chút mập mờ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Có người nhận xét rằng: Tú Xương cũng là một “thứ con đặc biệt” của vợ, tự nhận mà không chút ngượng ngùng sĩ diện. Và càng thấy vợ vất vả bao nhiêu với bố con, Tú Xương càng thấy mình là đoảng, là vô tích sự bấy nhiêu! Trong cơn hối hận chả có cách gì tạ lại công ơn của vợ, Tú Xương chỉ buột một lời tự chửi. Chửi cái anh chồng vô tích sự là mình. Chửi luôn cả thói đời bạc bẽo đã đẻ ra cái loại chồng đoảng như mình nốt. Một tiếng chửi mà để lại nhân cách, nhân phẩm là vậy:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!…”.
Nguyễn Đình Chú
(Thơ văn Tú Xương, Sđd, tr.29-30)
“… Một người vợ cần cù lam lũ như vậy, hy sinh nhẫn nại như vậy hỏi có người chồng nào bạc đãi, hắt hủi; hoặc nữa, còn dám không chung tình? Cho nên trong những lúc hãn hữu, ông trót vui anh vui em, trót làm phiền lòng vợ, nhà thơ không thể không thốt ra những câu có vẻ đùa cợt nhưng chính thật chân thành:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!.
(Thương vợ)
Người phụ nữ dũng cảm ấy luôn luôn bị chồng châm biếm, nhưng cách châm biếm của Tú Xương đối với vợ là một cách biểu lộ niềm âu yếm thiết tha, lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ:
Có một cô gái, nuôi một thầy đồ.
Quần áo rách rưới, ăn uống xô bồ.
Cơm hai bữa: cá kho rau muống,
Quà một chiều: khoai lang lúa ngo.
Sao dám khinh mình: thầy đâu thầy vậy,
Chẳng biết trọng đạo, cô lốc cô lô.
Cứ mỗi dịp Tú Xương chế giễu tình trạng thất nghiệp của mình, cứ mỗi bận nhà thơ nói đến cái nghèo túng hoặc lối ăn chơi của mình là mỗi bận, mỗi dịp nêu công đức của vợ, để ông đề cao vợ:
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.
Hay là:
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi.
Hoặc:
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ
Thưng đấu nhờ trông một mẹ mày.
Người đàn bà chung thủy kiểu mẫu đó luôn luôn gắn bó với chồng trên từng hành động, từng ý nghĩa, từng lo âu và từng hy vọng.
Ông đi thi chăng? Bà lo sắm sửa giấy bút, lo chạy tiền lưng gạo bị:
Tiễn chân, cô mất hai đồng chẵn
Sờ bụng, thầy không một chữ gì!…
Làm sao mà không cảm động lúc thi xong, bảng thi sắp yết, bà đi cúng, đi bói xem kỳ này chồng có được lấy đỗ không? Trong thủ tục mê tín kia có bao hàm cả một tấm lòng tận tụy:
Sáng đi lễ Phật còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
Làm sao không xót xa, khi trong cơn mê man của bệnh đau trầm trọng, nửa đêm chợt tỉnh dậy, nhìn với ra sân qua khe cửa hở, nhà thơ thấy bà Tú đặt bàn thờ, đèn nhang nghi ngút, đang lầm rầm khấn vái cầu trời cho chóng vượt qua được cơn tai nạn:
Im im thâu đêm, lại thằng này,
Bệnh đâu có bệnh lạ lùng thay!
Thuốc thang nghĩ lại chua mà đắng,
Đường mật xem ra ngọt hóa cay!
Lắm bệnh bạn bè đi lại ít,
Nặng nhọc họ mạc hỏi han dầy
Chỉ bền một nén tâm hương nguyện,
Thuốc thánh bùa tiên, ắt chẳng chầy!.
Mặt khác, người phụ nữ đó không phải chỉ biết có làm ăn quần quật suốt ngày, không phải chỉ có biết “lặn lội thân cò” và “eo sèo mặt nước”, người đó còn có một trình độ văn hóa nhất định, một trình độ nhận thức nhất định và đặc biệt có một năng khiếu tối thiểu về thưởng thức văn chương. Người vợ hiền đó còn tham gia vào công việc sáng tác của chồng. Phạm Thị Mẫn là người trước ai hết đã thuộc lòng tất cả thơ văn của Trần Tế Xương. Chính bà là người chủ yếu trong việc dạy lại thơ văn đó cho các con bà sau khi nhà thơ mất. Cũng có khi nhà thơ nửa đùa nửa thật hỏi ý kiến vợ về một bài ông mới sáng tác:
Viết vào giấy dán ngay lên cột.
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?
Thưa rằng hay thực là hay,
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài!
Xưa này em vẫn chịu ngài!
(Tết dán câu đối)
(Trần Thanh Mại – Tú Xương, con người và nhà thơ. Nxb Văn học, Hà Nội, 1961, tr.108-112)
Bài văn mẫu
phân tích bài thơ thương vợ
Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.
Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.
Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.
Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú giành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!
Trên đây là bài tập làm văn soạn bài thương vợ, chúc các bạn làm tốt bài văn của mình!
Theo Baivanhay.com