Hãy phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm của An- đéc-xen nói chung và phần kết của truyện nói riêng
Hướng dẫn
Cô bé bán diêm có lẽ là một trong những truyện An-đéc-xen làm em xúc động hơn cả. Thân phận của cô bé đã tội nghiệp lắm rồi, nhưng cảnh ngộ cụ thể của cô bé mồ côi này trong đêm giao thừa càng khiến ta vô cùng thương xót, và không thể không buộc em phải nghĩ ngợi về thái độ người đời đối với những cô bé như vậy.
Một em nhỏ, lại là bé gái phải chân trần đi bán diêm trong một đêm mịt mùng, tuyết rơi giá buốt. Hơn nữa, đây là một đêm giao thừa. Sự đối lập quá trái ngược giữa đêm tuyết giá ngoài trời đó với cảnh “ánh đèn sáng rực” trong các gia đình em bé đi qua, giữa mùi “ngỗng quay sực nức” với bụng đói cô bé lang thang trên đường, giữa quá khứ “những ngày đầm ấm” trong ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao phủ với hiện tại phải chui rúc trong “một xó tối tăm” luôn phải nghe những lời mắng chửi… làm nổi bật thân phận đáng thương của cô bé. Nhưng điều làm em buồn bực hơn cả là thái độ của những người qua lại. Tại sao trong một đêm giá rét như thế, lại là đêm giao thừa, mà bao người qua đó đều “rảo bước rất nhanh”, “chẳng ai đoái hoài” đến em cả? Tình người đâu nhỉ? Dù trời rét, dù vội về nhà tết nhất, nhưng lẽ nào không thể dừng chân đôi ba phút, nếu không cưu mang chia sẻ được gì, ít ra cũng có vài lời hỏi han an ủi em chứ! Cái thằng bé lấy mất chiếc giày của em “để làm nôi cho con chó sau này” còn không đáng giận bằng những người lớn nọ. Thằng bé chỉ độc ác một cách vô tư, hồn nhiên, chứ những người lớn đầy đủ ý thức mà đã dửng đưng vô cảm, thiếu hẳn tình đồng loại tối thiểu, nói gì đến lòng nhân đạo “thương người như thể thương thân”!
Không ai mua diêm cho em cả. Em cũng không dám về nhà, vì “nhất định cha sẽ đánh em”. Rét quá, đói quá, thêm nỗi lo sợ căng thẳng, em kiệt sức đành chỉ “ngồi nép mình trong góc tường”. Và đến đây, thiên tài An-đéc-xen đã sáng tạo nên một tình tiết tuyệt vời, mãi mãi đậm nét trong tâm trí em. Đó là tình tiết vừa thật vừa hư sau mỗi lần em bé quẹt diêm, dẫn đến cái kết thúc vừa đau thương nghẹn lệ, vừa huy hoàng như “những niềm vui đầu năm”.
Trong cảnh ngộ tăm tối đói lạnh của cô bé, dù chỉ một ngọn lửa diêm bé nhỏ thôi, cũng đã thành cả một niềm vui “sáng chói”, không chỉ sưởi ấm bàn tay tê cóng của bé, mà quý giá hơn là còn đáp ứng những mong muốn, khát khao biết bao thiết tha của bé! Trước mắt cô bé đáng thương, ngọn lửa diêm bé xíu cũng đã gợi ra những màu sắc tươi đẹp, ít nhiều tượng hình hạnh phúc. Những hạnh phúc hết sức bình dị, với bao bạn nhỏ khác, nhưng với cô bé ở đây lại chỉ có thể đạt được trong mơ ước. Có điều là mơ ước của cô bé vì độ nungnấu mãnh liệt của nó, nên đã đủ sức làm thể hiện lên trước mắt cô bé như có thực vậy. Nào là chiếc lò sưởi có lửa cháy “đến là vui mắt” và “hơi ấm dịu dàng”, nào là bàn tiệc đêm Nô-en có chú ngỗng quay, biết nhảy ra khỏi đĩa kèm theo cả dao, đĩa ăn mà “tiến về phía em bé”! Nào là cây thông Nô-en lộng lẫy biết bao!
Không có khả năng thực tế được ấm no, được chăm sóc yêu thương, cô bé bán diêm đã khát khao cực độ những hạnh phúc bình thường ấy. Hình ảnh cô bé chết vì giá rét, vì đói miếng ăn và tình thương trong đêm giao thừa, mà đôi môi “vẫn đang mỉm cười”, khiến em xót xa đến trào nước mắt. Cô bé mỉm cười, ửng hồng đôi má, trông thấy những cái “kì diệu”, “huy hoàng”. Cô bé thiên thần ấy càng khiến bi kịch thêm đau thương gấp bội và mỗi người có lương tri đều phải tự ngẫm lại trách nhiệm đồng loại, trách nhiệm với lứa tuổi nhỏ của mình. Lẽ ra cô bé có thể mỉm cười sung sướng, ửng hồng đôi má đón nhận những hạnh phúc bình dị ấy trong cuộc sống, chứ không phải trong cõi chết như vậy! Chỉ cần mỗi người chúng ta loại trừ được thói thờ ơ vô cảm, biết quan tâm hơn một chút đến cuộc sống quanh mình, nhất là những thân phận bất hạnh hay nghèo khó, côi cút, bệnh tật… thì cuộc sống này sẽ đẹp hơn bội phần.
Em được biết có những cô chú đã tổ chức những bạn nhỏ bụi đời thành một tập thể, biết gom công đấu sức lại để tự nuôi sống mình và để có một mái ấm, bù đắp tình cảm cho nhau, như tổ bán báo “Xa mẹ”, như những lớp học tình thương… Nhưng còn bao nhỏ khác đang phải lang thang, thiếu đói cả miếng ăn lẫn tình cảm! Chính bản thân em cũng đã nhiều lần “bước rảo” đi qua những cảnh đáng thương như cô bé bán diêm này! Ước gì mỗi người biết kịp thời tự vấn lương tâm mình hơn, biết dừng lại chia sẻ dù chỉ một ngọn lửa diêm ấm áp với những cảnh ngộ bất hạnh hằng ngày quanh ta.
Cảnh ngộ và cái chết của em bé bán diêm trong truyện Cô bé bán diêm (An-déc-xen) gây cho người đọc sự xúc động và nhiều suy nghĩ. Em hãy trình bày những tình cảm và suy nghĩ của mình.
I. Tìm hiểu đề và cách làm bài
– Nêu ra những suy nghĩ và tình cảm của bản thân đối với số phận của cô bé bán diêm; xúc động vì cảnh ngộ đáng thương, vì những ước mơ của cô bé, thấy thương cảm vì cái chết của cô, từ đó suy nghĩ đến cảnh ngộ những người nghèo khổ và việc làm của bản thân đối với những người đó.
– Bài viết gắn liền được cảm xúc với cuộc đời nhân vật, từ những tình cảm cao đẹp do hình tượng nhân vật gợi ra việc làm của bản thân đối với những người nghèo khổ xung quanh.
II. Một số điểm cần lưu ý
1. Truyện Cô bé bán diêm không nhiều tình tiết. Khi đọc truyện, cần chú ý đến:
– Cảnh ngộ đáng thương của cô bé (cảnh ngộ gia đình, cảnh ngộ khi đi bán diêm).
– Những cảnh tượng hiện ra trước mắt cô bé khi quẹt các que diêm. Cảnh tượng đó chính là ước mơ của em về một cuộc sống hạnh phúc. Ước mơ vừa có tính trẻ thơ (con ngỗng quay, cây thông Nô-en, hình ảnh bà nội…) vừa có ý nghĩa sâu sắc.
– Cái chết của em bé giữa tuyết lạnh và giữa những bao diêm nhưng đôi môi vẫn đang mỉm cười.
Những tình tiết trên có thể gây nên các cảm xúc và ý nghĩ gì cho ngườiđọc.
2. Nên từ các suy nghĩ, cảm xúc xung quanh nhân vật của truyện nghĩ đến cuộc sống hôm nay, nghĩ đến việc làm đối với những người nghèo khổ hiện tại.
DÀN BÀI
A. Mở bài
Giới thiệu truyện Cô bé bán diêm và cảm nghĩ chung của em về cảnh ngộ và cái chết của cô bé.
Có thể nêu các cảm nghĩ;
– Thương cảm, xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ, trước cái chết của cô bé.
– Suy nghĩ về tình cảm giữa những lớp người, giữa những cá nhân với các sốphận khác nhau trong xã hội: cần có sự thương cảm, có hành vi giúp đỡ, quan tâm đến nhau.
B. Thân bài
1. Thương cảm, ái ngại trước cảnh ngộ nghèo khổ, cơ cực của cô bé và sự phẫn nộ trước thái độ thờ ơ của mọi người trong truyện.
+ Lược thuật ngắn gọn cái chết của em (chú ý các chi tiết quan trọng: em chết nhưng đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười, em chết giữa những bao diêm, ở xó tường, bên ngoài là tuyết phủ kín mặt đất…).
+ Nêu và phân tích tình cảm của em trước cái chết đó: xót xa, nghẹn ngào vì em bé đã chết. Xúc động, thương em bé có những ước mơ bình thường mà không đạt được.
+ Từ cái chết của em bé bán diêm nghĩ đến cuộc sống của biết bao em bé nghèo khổ, bao gia đình không đủ miếng ăn, không có quần áo mặc. Từ đó nghĩ đến trách nhiệm của mọi người đối với những người nghèo khổ khác.
C. Kết bài
– Khẳng định một lần nữa tình cảm nhân hậu mà truyện gợi lên trong lòng người đọc.
– Nêu rõ trách nhiệm và tình thương của mọi người đối với sốphận và cuộc đời những em bé bán diêm, bán báo, nhặt vỏ chai… thời nay.
Cái chết của em bé bán diêm là sự phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài Anđecxen
Bài làm
An-đec-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Nô-en lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì “trời đã tối hẳn” mà “tuyết rơi” không ngừng, và “rét đữ dội”. Khác thường là vì: “Đêm nay là đêm giao thừa” nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó “một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối”. Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào” thì “em không thể nào về nhà”, bởi lẽ khi đó “nhất định là cha em sẽ đánh em”. Bởi vì từ khi “Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”. Hơn nữa “ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà”. Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. “Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả”. Vì thế “suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường”. Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: “bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý” và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây em không còn đi được nữa. “Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít”, Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý. Em bé ngồi chỗ đó với hy vọng sẽ có người chú ý đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Mùi ngỗng quay nhắc em “đêm nay là đêm giao thừa”. Mùi ngổng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. “Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”. “Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp “đã cứng đờ ra”. Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”. Và “em đánh liều một que”. Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. “Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”. Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang “tỏa ra một hơi nóng dịu dàng”. Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. “Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm”. Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai “cháy và sáng rực lên”. Que diêm cho em thấỵ: “bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”. Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế khi que diêm vừa tắt thì “thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”. Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại “những bức tường dày đặc và lạnh lẽo”. Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, “em bé quẹt que diêm thứ ba”. “Em thấy hiện ra một cây thông Nôen”, “cây này lớn và trang trí lộng lẫy” với “hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rõ”… Cây thông Nôen gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nóen cũng chỉ là một huyền thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn dang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nôen cũng “bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, “người hiền hậu độc nhất đối với em” thường nói: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. “Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em”, “em reo lên” và van xin bà “cho cháu đi với”, “cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy “chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em”. Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em “Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại”. Kết quả là “Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa”.
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường “một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh “một bao diêm đã đốt hết nhẵn” thì những người đang sống cũng không thể nào biết được “những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm’. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sông ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài Anđecxen.
Cảm nghĩ của em về nhân vật cô bé trong truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-đec-xen.
Bài làm
DÀN Ý
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu cám nghĩ sâu sắc nhất về nhân vật cô bé bán diêm (ví dụ: rất thương xót).
II. Thân bài:
Trình bày vì sao mình có cảm nghĩ đó.
Ví dụ: thương xót cô bé vì:
– Cô sống trong hoàn cảnh đáng thương.
– Nhất là tình cảnh của cô bé trong đêm Nô-en.
– Và cái chết vô cùng thương tâm của cô bé
III. Kết bài:
Nhấn mạnh thêm cảm tưởng của mình, cũng có thể từ đó lên ăn thái độ thờ ơ của người đời hoặc nghĩ đến bao thân phận các em nhỏ như thân phận cô bé bán diêm này…
BÀI THAM KHẢO
Truyện Cô bé bán diêm của An-đec-xen đã gợi cho em một nỗi cảm thương đến xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ, khôn cùng và cái chết vô cùng thương tâm của cô bé. Cô bé đã cạn kiệt về vật chất và bị tổn thương nặng nề về tinh thần. Trong cuộc đời này còn có gì đau đớn hơn khi là môt cô bé bị bỏ rơi, cô đơn, lẻ loi giữa trời.
Truyện Cô bé bán diêm của An-đec-xen đã gợi cho em một nỗi cảm thương đến xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ và cái chết của cô
Trước cảnh ngộ nghèo khổ, cơ cực của cô bé, lòng tôi như đau thắt lại. Có lẽ nào ta lại không cảm thấy xót xa khi nghĩ về hình ảnh cô bé một mình bơ vơ, giữa một không gian mênh mông trong đêm tối, rét cắt da, cắt thịt. Trong khi mọi người được sum vầy vui vẻ trong các căn nhà âm áp, bên lò sưởi kia, thì em bé phải một mình bán những bao diêm, em chẳng được ai quan tâm để ý. Cảnh ngộ đó của cô bé càng làm đau đớn tim ta hơn, vì nó lại xảy ra trong đêm giao thừa, khi tất cả niềm vui và sự đầy đủ ùa vào những căn nhà ấm cúng.
Chính lúc đó cô bé đầu trần, chân đi đất, run rẩy vì lạnh và đói. Sự đầm ấm của các gia đình hiện ra qua khung cửa sổ kia càng làm chúng ta xót xa cho cô bé khốn khổ tội nghiệp, không có lấy một chút hạnh phúc nào trong đêm giao thừa. Nhất là hình ảnh cô bé chỉ biết ngồi thu chân vào hốc tường mà hồi tưởng, mà ước mơ. Một que diêm bật sáng lên là cuộc sống quá khứ lại hiện về. Đó là những ngày sống vui vẻ, tràn đầy hạnh phúc bên bà nội hiền từ, nhân hậu như một bà tiên, trong ngói nhà nhỏ xinh xắn có dây thường xuân bao quanh. Nhưng que diêm tắt là một thực tại vô cùng nghiệt ngã, phũ phàng lại ập đến. Em đang phải sống trong trăm đường cơ cực, khổ sở. Cả ngày phải đi bán diêm, nếu không bán được, đến tối về lại bị bố đánh đập. Và trong đêm giao thừa rét căm căm này em không dám về vì chẳng bán được một que diêm nào. Ngay cả những ước mơ nhỏ bé của em mà cũng chỉ thấy được qua mộng ảo. Mỗi một que diêm sáng lên ước mơ ở đây không phải là ánh sáng của một cây đèn hay của một nguồn ánh sáng gì to lớn. Nó chỉ là một ánh lửa diêm nhỏ bé, dễ dàng tắt lụi trong đêm băng tuyết. Bởi vậy mỗi que bật lên sao có thể sưởi ấm được tâm thân và tâm hồn đã đông lạnh của cô bé. Nó chẳng qua chỉ là chỗ bấu víu cực kì mong manh của cô bé mà thôi. Em bé quẹt cả số diêm còn lại chính là để cố bám lấy những ước mơ đó. Trong khi chúng ta có đầy đủ những thứ đó thì cô bé bán diêm của An-đec-xen lại thiếu tất cả. Ngay cả giấc mơ đẹp nhất em cũng chỉ được thấy khi đã hấp hối.
Chúng ta càng trân trọng những ước mơ đó của em bao nhiêu lại càng đau đớn bấy nhiêu trước cái chết vô cùng thương tâm của em. Dẫu tác giả có tả em bé chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng, đôi môi đang mỉm cười, thì nỗi đau trong ta vẫn không thuyên giảm, mà thậm chí cứ nhắm mắt lại thì hình ảnh ấy lại càng day dứt ta hơn.
Hình ảnh cô bé bán diêm mãi mãi để lại trong lòng bao người đọc trên khắp thế gian này, niềm đau thương vô hạn, như luôn nhắc nhở chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Và đó cũng chính là tấm lòng nhân hậu tràn đầy của An-đec-xen.
Em hãy viết bài văn phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-đéc-xen.
Bài làm
Hanx Cri-xti-an An-đéc-xen (1805 – 1875) sinh ra trong một gia đình nghèo khổ trên đất nước Đan Mạch, vốn là người đa cảm và có năng khiếu văn chương, ông trở thành nhà văn nổi tiếng với loại truyện dành cho thiếu nhi. Cái tên An-đéc-xen rất quen thuộc với bạn đọc năm châu. Không chỉ trẻ em mà người lớn cũng yêu thích truyện của ông bởi sức hấp dẫn lạ lùng được tạo nên từ sự kết hợp tài tình giữa hiện thực và tưởng tượng, cùng với tính chất hoang đường, kì ảo. Tình thương yêu con người và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của điều thiện là nội dung bao trùm lên toàn bộ sáng tác của An-đéc-xen.
Cô bé bán diêm là câu chuyện vô cùng cảm động về số phận bất hạnh của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. Đói và rét, cô bé ao ước có lò sưởi ấm, có thịt ngỗng quay, có cây thông Nô-en và bà nội sống dậy cùng em đón giao thừa. Xót xa thay, tất cả đều là mộng tưởng Ị Cô bé đã chết cóng trong đêm đông giá lạnh.
Bố cục câu chuyện có thể chia làm ba phần. Phần thứ nhất giới thiệu hoàn cảnh cơ cực của cô bé bán diêm. Phần thứ hai (trọng tâm) kể về những lần quạt diêm và bao hình ảnh đẹp đẽ hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba miêu tả cái chết thương tâm của cô bé trong đêm đông giá lạnh.
Phần trọng tâm có thể chia làm 5 đoạn nhỏ, dựa vào các lần cô bé quẹt diêm. Bốn lần đầu, mỗi lần cô bé chi quẹt một que diêm. Lần thứ năm cô bé quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao.
Thời điểm xảy ra câu chuyện khá đặc biệt: Đêm giao thừa, mọi người sum họp dưới mái ấm gia đình để cùng nhau tiễn đưa năm cũ và đón chào năm mới trong không khí thiêng liêng, ngập tràn hạnh phúc. Riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, váy áo phong phanh, bụng đói meo đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt ngày hôm nay, cô bé lang thang khắp nơi mà không bán được bao diêm nào.
Lúc này, quang cảnh xung quanh cô bé đẹp đẽ, ấm áp lạ thường: cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Những hình ảnh ấy gợi cô bé nhớ lại năm xưa được đón giao thừa bên bà nội hiền hậu trong căn nhà xinh xắn có đầy dẫy thường xuân bao quanh. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tương phản làm nổi bật tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé. Em đang rét và có lẽ càng rét hơn khi thấy mọi nhà rực sáng ánh đèn. Em đang đói, có lẽ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức. Chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi cô bé ngoài cái xó xinh tối tăm, rét mướt, đầy tiếng mắng nhiếc, chửi rủa cửa người cha thô lỗ, cộc cằn. Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và cha mẹ giờ đây đã lùi vào dĩ vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô bé tan nát. Mẹ mất, bà nội cũng qua đời, em không còn được ai yêu thương, ấp ủ.
Giờ đây, cô bé ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà… cho đỡ lạnh. Không bán được diêm, sợ bị cha đánh đòn nên em chẳng dám về nhà, vả lại ở nhà cũng đói, cũng rét như ở đây thôi: Cha con em ở trên gác sát mài nhà và mặc dầu đã nhét giỗ rách vào các khe hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà.
Giữa đêm giao thừa giá buốt, cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em nép vào một góc tường để tránh cơn gió bấc rét thấu xương cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ bé. Đôi bàn tay em cứng đờ vì lạnh, em ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm: Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ? Cuối cùng em đánh tiêu quẹt một que. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.
Que diêm thứ nhất soi tỏ niềm vui sáng ngời trong đôi mắt cô bé tội nghiệp. Ngọn lửa chắp cánh cho trí tưởng tượng của em bay bổng: Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kì dị làm sao! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng.
Thật là dễ chịu! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!
Thực tế và mộng tưởng xen kẽ với nhau. Trong ánh lửa bập bùng của que diêm, những hình ảnh của cuộc sống đầy đủ hiện ra rõ ràng trong đầu óc cô bé. Mải mê tưởng tượng nên que diêm cháy gần bén ngón tay mà em không thấy nóng. Em ao ước lúc này mà được ngồi trước lò sưởi để hơ đôi bàn tay đã cứng đờ vì lạnh thì sung sướng biết bao! Que diêm cháy hết, cô bé lại trở về với hiện thực phũ phàng:
Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bẩn thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm. Đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng.
Sợ thì sợ nhưng những ảo ảnh đẹp đẽ do ngọn lửa của que diêm thứ nhất tạo ra vẫn lôi cuốn, hấp dẫn em mãnh liệt. Em muốn tiếp tục được sống trong thế giới kì diệu ấy: Em quẹt que diêm thứ hai, diêm chảy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sốt cắm trên lưng, tiến về phía em bé.
Rồi… que diêm vụt tắt; trước mặt em chi còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo.
Đáng buồn thay! Những ảo ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát. Lửa tắt, vây quanh em vẫn là bóng tối mịt mùng, là cái lạnh thấu xương, cái đói rã rời và đáng sợ hơn cả là nỗi cô đơn không ai chia sẻ: Thực tế đã thay thế cho mộng tưởng; chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chi có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phũ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của cô bé bán diêm.
Tuy vậy, em vẫn không tuyệt vọng. Trí tưởng tượng phong phú đã đem lại cho em những ao ước mới: em muốn đêm Giáng Sinh phải có cây thông Nô-en nên quyết định quẹt que diêm thứ ba: Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Nhưng rồi diêm tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời. Xung quanh em vẫn là hai bức tường và đêm tối, rồi em nghĩ tới bà em vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.
Em quẹt que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh toả ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em.
– Bà ơi! Em bé reo lên, cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi! Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.
Que diêm tắt phụt, và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biến mất.
Lần thứ năm, em quẹt hết những que diêm còn lại để níu kéo hình ảnh của bà, để được bà cho đi theo đến một thế giới không còn đói rét và đau khổ:
Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về chầu Thượng đế.
Các mộng tưởng của em bé diễn ra lần lượt theo thứ tự như trên là hợp lí. Vì trời rất rét nên trước hết em mơ tưởng đến lò sưởi. Tiếp đó vì đang đói nên em mơ tưởng đến bàn ăn đầy thức ăn ngon mà sau các bức tường kia, mọi nhà đang đón giao thừa. Vì là đêm giao thừa nên ngay sau đó, cảy thông Nô-en hiện ra. Đến đây, tất nhiên mọi điều đều gợi cho em nhớ đến đã có một thời, em cũng được đón giao thừa như thế, khi bà nội còn sống và bất chợt, hình ảnh bà em xuất hiện.
Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và cái chết bi thảm của em bé bán diêm:
Sáng hôm sau, tuyết vẫn phũ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”, nhưng chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm.
Em bé thật đáng thương! Chỉ có mẹ và bà thương yêu em, nhưng họ đều đã qua đời. Cha em có lẽ vì quá nghèo khổ nên đã đối xử với em tàn nhẫn. Người qua đường nhìn thấy thi thể em vào buổi sáng đầu năm với thái độ dửng dưng, vô cảm. Trong xã hội tư bản thiếu sự đồng cảm và tình thương yêu giữa người với người, nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với niềm xót thương vô hạn đối với em bé bán diêm bất hạnh nói riêng và cả tầng lớp người nghèo khổ nối chung. Để làm dịu bớt nỗi đau đang nhức nhối trong tim và cũng để an ủi những linh hồn tội nghiệp, nhà văn đã miêu tả em bé chết nhưng đôi má vẫn hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời hình dung ra cảnh huy hoàng hai bà cháu bay lên trời để đón lấy những niềm vui đầu năm. Tuy vậy, nội dung câu chuyện Cồ bé bán diêm với kết thúc thương tâm của nó vẫn khiến người đọc cảm động rơi nước mắt.
Phân tích tác phẩm Cô bá bán diêm của An đec xen là một tác phẩm hay nói về cái lạnh giá mà cô bé bán diêm phải chịu. Nói lên cái nỗi oán ức khi mồi côi mẹ, ở với một người bố lạnh lùng vô cảm như vậy. Không chỉ vậy mà còn hành hạ cô bé đối xữ với cô bé một cách tàn bạo.
Bài làm
Tác phẩm được viết theo lối cổ tích đan xen giữa thực và ảo. Tuy nhiên cái yêu tố thực ấy lại được tác gải kể lại, phác họa lại một cách đậm nét rõ ràng. Khác họa rã cái sự bất hạnh mà cô bé phải gán chịu trong cái xã hội đó.
Tác phẩm được tả lại trong một đêm giao thừa lạnh lẽo, tuyết rơi. Cô bé chìm đắm trong cái lạnh và đã ảo tưởng ra được những ước mơ nhỏ nhoi nhất mà cô bé chưa hồi nào được thấy.
Cài hình ảnh đầu tiên được tác giả gợi ra đó là cái lạnh cái giá buốt có tuyết rơi của một đem giao thừa. Đáng lẽ cái thời gian này cô bé phải được ở nhà cùng gia đình đón giao thừa, hưởng thụ cái bầu koong khí ấm cũng như vậy nhưng ở đây cô không được như những em bé khác mà cô phải chịu sự lạnh lẽo giá buốt của đêm giao thừa. Ở đây tác giả muốn nói lên cái sự bất hạnh của cô bé mà em phải gánh chịu, bất hạnh nữa là cô bé mồi côi mẹ, ở với người bố nhưng người bố lại không yêu thương cô mà hành hạ bắt cô phải đi dán diêm ngay trong đem giao thừa. Đây chính là nét hiện thực độc đáo mà tác giả đã khác họa rõ nét nhất.
Thông qua các lần mộng tưởng của cô bé thì tác giả đã khắc họa rõ hơn về thế giới mộng ảo cũng nhưng hiện thực của cô bé được tác gỉa lồng ghép vào. Mỗi lần cô bé thấy được là mỗi lần cô thấy được những điều kỳ diệu nhưng nó vẫn mãi là ảo tưởng không hiện thực nhưng cô nghĩ.
Lần thứ nhất trong mộng tưởng của cô bé là một ló sưởi ấm dịu dàng, cô bé đã cảm nhận được cái giá rét lạnh lẽo của đêm giao thừa. Cô bé chợt nhớ ra bố cô bé đang sai cô bé đi bán diêm. Trong lức này cô rát muốn về nhà nhưng sợ bố, sợ bố đánh đập mình. Chứng tỏ cô bé sợ bố mình và người bố thì luôn nhẫn tâm vô cảm với cô bé và hay đánh đập cô.
Lần thứ hai cô bé đã thấy một bàn ăn thịnh soạn, có một con ngỗng quay đang tiến về phía em. Chứng tỏ cô bá đang rất đói bụng và muốn ăn nhưng thực ra cô đang ngồi trong cái cảnh giá rát lạnh lẽo và đói bụng.
Lần thứ ba cô bé đang nhìn thấy cây thông noen và hàng ngàn ngọn nến. Lần này em lại nhớ đến mẹ em nhớ hồi mẹ còn sống đã dẫn em đi chơi. Thực ra lúc này cô bé đang rất buồn tủi, rất đau khổ một mình cô độc trong đem giao thừa lạnh lẽo thế này.
Lần thứ tư cô bé lại thấy bà mình xuất hiện và đang mỉn cười với cô. Cô đã cảm nhận được sự thiếu tình thương của gia đình của bố mẹ. Thay vào đó là sự sợ hãi bị đối xử một cách tàn bạo.
Lần thứ năm cũng là lần cuối cùng cô bé nhìn thấy một bà lão đã cầm tay và hai bà cháu bay vụt lên trời. Cũng chính là cái chết của cô bé trong một đêm giao thừa lạnh lẽo và giá buốt như vậy. Không được ai biết đến và đây là chi tiết mà khiến người đọc cảm thương day dứt.
Qua bài thơ này cho thấy những nhân vật bất hạnh điểm hình ở đây là cô bé bán diêm. Những người yêu thương cô thì lặng lẽ ra đi. Người làm chỗ dựa cho cô thì vô tâm lạnh lẽo đối xữ tàn bạo với cô. Người đời thì nhẫn tâm lạnh lùng vô cảm đùa cợt trong tình cảnh của cô. Cho thấy một xã hội không có tình thương, không có tình người. Cái chết của cô đã khiến cô bé ra đi trong sự thanh thản, mãn nguyện của cô.
LUYỆN TẬP
Đề 1. Giới thiệu vài nét về nhà văn An-đéc-xen và truyện Cô bé hán diêm.
Đề 2. Tóm tắt truyện Cô bé bán diêm và trình bày bốcục của truyện.
Đề 3. Phân tích giá trị nhân đạo của truyện Cô bé bán diêm.
Đề 4. Trong truyện Cô bé bán diêm, thiên tài An-đéc-xen đã sáng tạo nên một tình tiết tuyệt vời. Theo em, đó là tình tiết nào? Em hãy phân tích tình tiết ấy.
Theo Baivanhay.com