Bài giảng của thầy Hà Minh Đức về Đây thôn Vĩ Dạ“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào […]
Hướng dẫn
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ lần đầu in trong tập “Nắng xuân” (1937). Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng, quãng đời sống và sáng tác của ông là rất ngắn ngủi ( 1912 – 1940).
Cuộc đời của Hàn Mặc Tử cũng phát triển không bình thường: ông phải chịu đựng những đớn đau giày vò của bệnh tật và sống trong trạng thái cô đơn giữa cuộc đời.
Hàn Mặc Tử là một người đa tình, ông khơi nguồn cho thơ từ nhiều nguồn cảm xúc: lòng tin nơi Đức chúa Trời mà tác giả có lúc tự nhận mình là “Thi sĩ của đội quân Thánh giá” với bao lời cầu nguyện vẻ đẹp của quê hương, một tình yêu than thiết với nhiều cái tên đẹp: Ngọc Sương, Mộng Cầm, Thương Thương, Hoàng Cúc… “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử được sáng tạo nên từ hai nguồn cảm hứng – cảnh đẹp của Vĩ Dạ mà có lần Bích Khê đã viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn Biếc che cần trúc không buồn mà say”.
Thiên nhiên đẹp, làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ. Nhà thơ Quách Tấn cho biết Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh có phong cảnh xứ Huế và dòng Hương có con đò, bóng tre cần trúc hai bên bờ. Tấm ảnh cũng gợi cho Hàn Mặc Tử những tình cảm, xúc động để từ đó tạo nên cảm hứng trong thơ. Nhà nghiên cứu Văn Tâm lại nói thêm: “Khoảng năm 1937 nghe tin Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y, Hoàng Cúc đã gửi vô Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử một tấm hình chụp hồi còn mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh có kèm lời thăm hỏi sức khỏe và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm Vĩ Dạ?” Và đó là nguyên nhân trực tiếp cho sự ra đời của “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Câu thơ mở đầu như một lời chào mời, một lời thăm hỏi hay một lời trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lời thơ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Thôn Vĩ Dạ bên bờ sông Hương là một làng quê đẹp, có nhiều khu vườn xanh tươi, buổi sáng khi mặt trời mọc, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm, ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt dễ tạo nên những tình cảm gắn bó và thiết tha với cuộc sống. Ở đây tác giả miêu tả những hàng cau thân vút cao trong buổi bình minh gợi một cái gì khỏe khoắn của thiên nhiên:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”.
Hàng cau còn gợi lên không khí của làng quê như đã có từ lâu đời. Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng nhận xét: “Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế.”
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
Chữ “mướt” ở đây được dùng rất khéo, nói lên cái tốt tươi của sự sống trong khu vườn, nói “mướt” là nói đến trạng thái mượt mà, mềm dịu đang độ phát triển tơ non. Màu “xanh như ngọc” là màu xanh như được lọc qua ánh sáng rất đẹp và gợi cảm. Đó là màu xanh được miêu tả ban mai hoặc khi bầu trời đang bừng sáng thì mới có một màu xanh như ngọc. Có thể so sánh với nhiều từ ngữ khác nhau, những trạng thái, sắc thái của màu xanh: xanh lơ, xanh lục, xanh nõn, xanh thẳm, xanh biếc…Vườn cây vừa chiếm lĩnh chiều cao của không gian với những hàng cau cao vút và bề rộng với cây xanh tươi tốt. Trong những vườn đó ẩn hiện những khuôn mặt phúc hậu:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Ở đây tác giả miêu tả quan hệ giữa người và cảnh như hài hòa, phù hợp và gắn bó với nhau.Tuy chỉ là những nét thấp thoáng nhưng cũng gợi lên được ấn tượng về những con người chân chất ở vùng quê, những người lao động trung thực với khuôn mặt chữ điền. Nhìn chung, trong khổ một tác giả đã miêu tả được vẻ đẹp của vùng quê xứ Huế, đất đai trù phú, cây cối xanh tươi, một vẻ đẹp của làng quê thịnh vượng đã có từ lâu đời; về phía chủ quan là tình cảm mến yêu cuộc sống. Ngoài lòng yêu đời có thể còn là những tình cảm riêng gắn bó với mảnh đất, với người thân quen. Khổ một của bài thơ như gây ấn tượng về sự hiện diện của nhà thơ trong cách miêu tả làng quê đẹp bên bờ sông Hương. Tuy nhiên, đọc kĩ cả bài thơ thì tất cả trôi trên dòng tâm tưởng của một tình cảm thiết tha và dè dặt của một nỗi nhớ thương như nén lại trong cảnh ngộ riêng của mình.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ mà tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Cũng vì thế mà tứ thơ path triển không theo một dòng chảy liên tục và có lúc như gián cách, như bất ngờ xuất hiện những ý tứ và hình ảnh mới. Đất Huế không chỉ có một vẻ đẹp mà thiên nhiên có nhiều sắc thái, khung cảnh có vui, có buồn và tấm lòng của tác giả với những thiết tha nhớ mong về nơi ấy và về con người ấy nên tránh sao khỏi buồn. Tác giả lại miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác gợi buồn gợi nhớ:
“Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Dòng nước trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết, đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả.
Tình cảm buồn xuất phát từ nhiều lý do, nỗi bâng khuâng trước một miền đất lạ, nhiều mơ ước, nhiều dè dặt, những thoáng nghi ngờ.
Nói đến Huế, các nhà thơ đều đặc biệt quan tâm đến dòng sông Hương với vẻ đẹp đặc biệt của một dòng sông nước trong chảy lững lờ giữa thành phố. Các nhà thơ Nam Trân, Tố Hữu đều có nhiều bài thơ đẹp viết về sông Hương, như câu thơ rất chân tình của Tố Hữu:
“Hương Giang ơi, dòng sông êm Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”.
Với Tố Hữu, đó là dòng sông tuổi thơ, dòng sông quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn tác giả. Còn với Hàn Mặc Tử đây là dòng sông thơ mộng như thực như hư, nhất là trong đêm trăng, đó là một dòng sông trăng. Không gian ngời ngợi ánh trăng, con thuyền cũng đầy trăng và ghé nhiều bến trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của trăng với nhiều sắc thái lạ:
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng”.
Tác giả đã nhân cách hóa vầng trăng theo con mắt đa tình:
“Mới lớn lên trăng đã thẹn thò Thơm như tình ái của ni cỏ Trang nằm sóng soãi trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi”.
Trong bài thơ, dòng sông Hương được miêu tả rất thơ mộng như một dòng sông trăng và con thuyền cũng trở đầy trăng và cập bến như vừa xác định vừa mơ hồ. Cảm xúc với Huế là những cảm xúc đẹp.
Ở khổ thơ cuối tác giả bộc lộ tâm trạng:
“Mơ khách đường xa, khách đường Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Phải chăng khách đường xa nhớ đến miền đất thân yêu này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệmnhưu đã có ở trong đời hay đúng hơn chỉ một niềm mong ước? Tất cả như thực như hư; hình ảnh áo trắng của người con gái là hình ảnh đẹp gợi lên sự trong trắng, thanh khiết mà một số nhà Thơ Mới thường dùng. Câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã được dùng trong thơ xưa để nói lên cái hư ảo của kiếp người: “Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
Hàn Mặc Tử nói đến hình ảnh “mờ nhân ảnh” là chân thực vì hình ảnh của một người thân yêu nào đó còn mờ ảo, như thực, như hư. Đó là một tình cảm lãng mạn, một bóng dáng xa xôi, một ước mơ đẹp. Cũng vì thế mà trong lòng tác giả nảy sinh một câu hỏi rất thực mà cũng có tính chất văn chương của nghệ thuật tu từ:
Ai biết tình ai có đậm đà?
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hay, thiên nhiên đẹp và tình người với những mơ ước, những dè dặt, tình đời như nửa thực nửa hư. Bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, một nhà thơ mang theo nhiều nỗi niềm mơ ước và cũng hiểu rõ giới hạn mà mình có thể tìm đến với cuộc đời. Nhà phê bình Lê Đình Kỵ nhận xét: “Hai bài thơ được thừa nhận rộng rãi đến thành cổ điển của Hàn Mặc Tử: Mùa xuân chín và Đây thôn Vĩ Dạ không xa lạ với những trình tự quê hương và vào loại trong sáng nhất của Thơ Mới”.
Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ quen và lạ
Theo Baivanhay.com