Home / Văn mẫu THCS / Văn mẫu lớp 6 / Em hãy kể lại truyện Thánh Gióng

Em hãy kể lại truyện Thánh Gióng

Em hãy kể lại truyện Thánh Gióng

Hướng dẫn

TRẺ EM VẪN MƠ ƯỚC VƯƠN VAI MỘT CÁI LÀ TRỞ THÀNH TRÁNG SĨ NHƯ THÁNH GIÓNG. EM HÃY TƯỞNG TƯỢNG MÌNH MƠ THẤY THÁNH GIÓNG VÀ HỎI NGÀI BÍ QUYẾT, XEM NGÀI KHUYÊN EM NHƯ THẾ NÀO.

Trẻ em trên đất nước ta đều muốn làm tráng sĩ như Thánh Gióng. Em cũng thích câu chuyện về vị Phù Đổng Thiên Vương này và thỉnh thoảng lại kể lại cho em trai em nghe. Cu cậu nghe đi nghe lại câu chuyện này có khi đến hàng trăm lần mà vẫn chưa chán và luôn hỏi: “Chị ơi tại sao Thánh Gióng vươn vai một cái là thành tráng sĩ mà sáng nào em cũng vươn vai mấy lần nhưng vẫn bé tí thế này?”. Em chỉ cười đáp: “Bao giờ gặp Thánh Gióng chị sẽ hỏi cho”. Không ngờ, em đã gặp này trong mơ và được nghe những lời khuyên hết sức bổ ích. Em vẫn nhớ mãi về giấc mơ này.

Trong mơ, em thấy mình đang ở một ngôi làng nhỏ, ngôi nhà bên cạnh em im ắng lạ thường. Em định gõ cửa thì thấy một điều kì lạ xảy ra: tay em xuyên qua cánh cửa. em bèn bước vào. Rồi em nhìn thấy một bà mẹ đang ngồi cạnh cái nôi trong có đứa bé. Lúc đầu, em không biết đó là ai nhưng sau đó em biết là Thánh Gióng lúc nhỏ khi người mẹ than thở: “Trời ơi, sao tôi khổ thấy này? Chúng tôi chỉ có một đứa con trai nhưng đã lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói!”/

Đúng lúc đó, cậu bé bật đứng dậy, đòi mẹ gọi sứ giả vào. Cậu xin sứ giả roi sắt, ngựa sắt, giáp sắt để lên đường ra trận đánh giặc. Bà con hàng xóm láng giềng giúp đỡ cậu bằng cách góp cơm gạo, quần áo cho cậu, tiễn cậu đến tận cổng làng.

Em quan sát sự phi thường của Thánh Gióng khi người ra chiến trận đánh giặc, thầm phục ngài vì đã dùng hết sức lực của mình để cứu nước. Dường như dòng máu yêu nước đã chảy trong ngài là một cậu bé lên ba.

Khi Thánh Gióng đánh thắng quân giặc, ngài cởi áo giáp, chuẩn bị bay về trời thì em chạy đến. Khi bắt gặp ánh mắt khó hiểu của em, Thánh Gióng lên tiếng:

– Cháu có điều gì muốn hỏi ta phải không?

– Dạ vâng ạ! – Em đáp – Ngài làm thế nào mà lại có sức mạnh phi thường như vậy ạ?

– À, đó là do rất nhiều điều. Thứ nhất, ta không chỉ là con của nhân dân Văn Lang vĩ đại mà còn là con của thần thánh. Ta đã lớn lên tại đất Việt, ta biết ơn bố mẹ ta và những người láng giềng tốt bụng, luôn luôn sẻ chia, giúp đỡ nhau.

Thứ hai, hãy luôn về phe chính nghĩa thì cháu sẽ luôn chiến thắng. Đứng về phe ác. Ở đó, cháu sẽ bị nhiễm thói xấu xa, độc ác.

Thứ ba, hãy chăm tập luyện, vận động và giữ vững sự khỏe khoắn cả về thể xác lẫn tinh thần. Hãy giữ cho tâm hồn mình thật trong sạch.

Và điều cuối cùng: Cháu thử xem ai đã cho ta cái ăn, cái mặc? đó là nhân dân. Nhưng nếu chỉ một người tì chắc ta sẽ không bao giờ được như thế này. Phải có sự đoàn kết, cháu ạ. Và đoàn kết là sức mạnh phi thường nhất, cũng là chìa khóa của thành công.

Hãy ghi nhớ lời ta. Kết hợp cả bốn điều trên, ta sẽ có sức mạnh vô song, không ai địch nổi. Hãy nhớ nhé!

Em chưa kịp nói lời cảm ơn thì “Reeng… Reeng…”, cái đồng hồ báo thức kêu lên. Em ngẫm nghĩ về lời khuyên của Phù Đổng Thiên Vương và thấy nó thật là có ích. Bắt đầu từ hôm nay, em sẽ áp dụng những lời khuyên của ngài vào cuộc sống.

SAU KHI ĐÁNH GIẶC ÂN, THÁNH GIỐNG VỀ TRỜI TÂU VỚI NGỌC HOÀNG CÔNG VIỆC MÌNH LÀM DƯỚI TRẦN GIAN. EM HÃY KỂ LẠI CHUYỆN ĐÓ.

Sau khi đánh giặc Ân, Thánh Gióng phi ngựa sắt bay về trời. Vừa đến cổng trời, Thánh Gióng đã được các vị thần đón tiếp ân cần và dẫn vào sân rồng. Vừa bước vào sân, Thánh Gióng đã thấy Ngọc Hoàng ngồi trên ngai vàng uy nghi lộng lẫy. Hai bên là hai hàng chư Thần, chư Tướng lẫm liệt, oai nghiêm.

Thánh Gióng quỳ trước bệ rồng tâu:

– Hạ thần xin kính chúc Ngọc Hoàng vạn tuế. Và xin Ngọc Hoàng cho thần được tỏ bày những việc thần đã làm dưới trần gian.

– Trẫm miễn lễ. Khanh hãy bình thân và hãy kể lại cho trẫm và đình thần nghe những việc đó.

Thánh Gióng đứng dậy và bắt đầu kể:

Muôn tâu Ngọc Hoàng! Từ khi được Ngọc Hoàng sai xuống trần gian đầu thai để giúp dân trừ nạn, thần đã đi từ làng này đến xã khác, nhưng vẫn chưa tìm được người ưng ý. Một hôm, đến làng Phù Đổng, thần thấy dân làng nói nhiều đến vợ chồng ông lão phúc hậu, chăm làm đầu làng. Ngày ngày vợ ông lão ra đồng trồng cấy, còn ông lão thì lên rừng kiếm củi. Lúc rỗi rãi hai vợ chồng lại đi thăm mọi người, sẵn sàng giúp đỡ những người ốm đau, hoạn nạn. Vì thế dân làng rất quý mến. Tuy phúc hậu, nhưng vợ chồng ông lão đã sáu mươi tuổi mà vẫn chưa có một mụn con. Nghe nói vậy thần vui mừng khôn xiết. Biết chắc là sáng hôm đó, bà lão ra đồng làm việc, thần liền biến thành một vết chân rất to, khác thường. Quả nhiên một lúc sau, bà lão đã ra đồng làm việc. Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy vết chân đó. Bà suy nghĩ y=trầm ngâm và đặt bàn chân mình lên ướm thử xem hơn kém bao nhiêu. Không ngờ sau buổi đó, bà thụ thai. Ngày tháng qua đi một cách nhanh chóng, kể từ hôm đó đã mười hai tháng rồi.

Vào một buổi sáng mùa xuân mát mẻ, bà lão đã sinh ra một đứa con trai khôi ngô bụ bẩm. Đứa bé đó chính là Thần. Bố mẹ thần rất sung sướng. Bà con hàng xóm cũng kéo đến chia vui. Nhưng rồi, một nỗi lo âu đến với mọi người. Đã ba tuổi rồi mà thần vẫn chưa biết nói biết cười và cũng chẳng biết đi. Lo buồn nhưng không ai ghét bỏ thần. Mọi người vẫn thương yêu thần như trước.

Bấy giờ, có giặc Ân sang xâm chiếm bờ cõi nưới Việt. Sức giặc rất mạnh. Vua Việt lo sợ, dân chúng hoảng loạn. Ngọn lửa quân giặc đốt bốc cháy ngút trời, CHúng đi đến đâu là đốt sạch và tàn bạo hơn, chúng giết sạch kể cả cụ già, em nhỏ. Chúng để lại sau lưng những tiếng kêu khóc thảm thiết. Trước tình cảnh đó, Vua nước Việt cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu dân cứu nước.

Một hôm, nghe tiếng loa của sứ thần, tự nhiên thần bật lên tiếng nói:

– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con thưa chuyện.

Mẹ thần ngạc nhiên và nừng rỡ, vội đi mời sứ giả, Sứ giả vào, thần nói:

– Ông về tâu với Vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một bộ giáp sắt. Ta sẽ phá tan lũ giặc này.

Xem thêm:  Bình luận câu tục ngữ: Học ăn, học nói, học gói, học mở

Mừng rỡ, sứ giả về tâu vua. Vua cho các thợ ngày đêm làm gấp những thứ thần cần. Và cũng từ hôm đó, thần ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ. Cha mẹ thần không đủ tiền gạo nuôi thần. Bà con từ khắp nơi đổ về. Người gánh gạo, người gánh cà, người mang vải gom góp lại giúp cha mẹ thần nuôi thần. Ai cũng muốn thần lớn nhanh để đánh giặc.

Rồi một hôm, sứ giả đã đem các thứ thần cần đến. Thần vươn vai biến thành một tráng sĩ mặt khôi ngô tuấn tú, thân hình vạm vỡ, chân tay rắn chắc. Thần mặc giáp sắt rồi quỳ xuống từ biệt cha mẹ và bà con xóm làng. Mọi người lưu luyến tiễn đưa thần. Thần cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa. Thần thúc ngựa phi thẳng tới chỗ quân giặc, vung gậy sắt xuống đầu bọn chúng. Giặc chết như rạ, tướng giặc túng thế liền cưỡi ngựa bỏ chạy. Như rắn mất đầu, quân gặc giẫm đạp lên nhau mà chạy. Thần tiếp tục truy kích giặc, giáng cho chũng những đòn chí mạng để chúng từ bỏ hẳn mộng xâm lăng. bỗng roi sắt của thần bị gãy, thần bèn nhổ những cụm tre bên đường quật vào giặc. Cùng với thần, bà con các nơi, kẻ cầm gậy, người cầm cuốc hăng hái xông lên đuổi giặc. Đuổi đến chân núi Ninh Sóc thì không còn bóng tên giặc nào. Lên đỉnh núi, thần bèn cởi giáp sắt để lại, cưỡi ngựa sắt bay về trời chờ lệnh của Ngọc Hoàng phán bảo.

Khi Thánh Giống kể, Ngọc Hoàng và cả đình thần chăm chú lắng nghe. Nghe xong, Ngọc Hoàng vui vẻ hài lòng, vuốt râu phán bảo:

– Khanh thật là giỏi, khanh đã không phụ lòng tin của trẫm và không phụ lòng yêu mến của muôn dân. Khanh đã lập được công lớn. Trẫm nhất trí với lời thĩnh nguyện của muôn dân phong cho khanh chức Phù Đổng Thiên Vương và cho phép dân Việt hàng năm cứ đến tháng tư lại mở hội để nhớ mãi chiến công này.

– Nói xong, Ngọc Hoàng cho mang ngọc tửu, đào tiên ban thưởng Thánh Gióng và truyền cho,ọi người về chuẩn bị cho lễ mừng công của Gióng.

EM HÃY KỂ LẠI CHUYỆN THÁNH GIÓNG.

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu thì nằm đấy. Vợ chồng ông lão đâm lo?

Bấy giờ giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cựa mình và cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.

Từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi chú bé.

Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. AI nấy đều lo lắng, sợ sệt. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, thật lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lữa xông thẳng vào quân giặc hết kớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường quất vào quân giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quândẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.

Để tưởng nhớ người tướng sĩ có công đánh tan giặc Ân xâm lược. Nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.

Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư là làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng. Và để ngắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ và ngựa sắt đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, những ao hồ liên tiếp…

KỂ LẠI TRUYỆN THÁNH GIÓNG BẰNG LỜI VĂN CỦA EM.

Đó là vào thời vua Hùng Vương thứ sáu. Đất nước thật thanh bình, mọi người đều hưởng ấm no hạnh phúc. Thế nhưng vợ chồng già chúng tôi cứ cui cút trong gian nhà tranh vắng tiếng trẻ con. Một hôm, tôi đi ra đồng thấy một dấu chân khác lạ. Phần thì tò mò, phần thì vừa thấy thần báo mộng trong đêm, tôi đặt chân ướm thử. Không ngờ về nhà thụ thai.

Chờ chín tháng mười ngày vẫn chưa sanh, ông nhà và tôi lo quá. Nhưng đến tháng mười hai thì vợ chồng tôi đã có con. Chao ôi, một đứa bé mặt mũi khôi ngô như một tiên đồng. Chúng tôi mừng lắm. Nhưng chăm chút hoài mà thằng bé vẫn cứ như lúc lọt lòng. Đã ba năm tuổi mà nó không biết đi, không biết nói, biết cười.

Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đã đến xâm phạm bờ cõi, Vua Hùng đang kén chọn người tài giỏi ra công giết giặc. Thằng bé nhà tôi bỗng níu tay áo, khi tôi đang đưa nôi choi nó và nó cất tiếng: “Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vô đây cho con”. Hai vợ chồng tôi bàng hoàng nhìn nhau, tôi vộ chạy ra mời sứ giả vào nhà. Thằng bé mắt long lanh và nói sang sảng như phán truyền: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ phá tan giặc!”. Sứ giả sứng sốt rồi kính cẩn chào chúng tôi ra về. Tôi và chồng tôi chạy lại ôm con mà mừng khôn xiết. Từ đó thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Bà con lối xóm biết chuyện họ rất phấn khởi ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho thằng bé rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ra giết giặc trừ họa cho mọi người.

Giặc đã đến chân núi Châu Sơn. Mọi người hoảng hốt nhìn Gióng như cầu cứu. Cũng may là nhà vua đã cho đưa đến ngựa sắt, áo giáp sắt, và roi sắt. Thằng bé bỗng đứng dậy vươn vai một cái, nó to lớn và mạnh mẽ khác thường. Nó mặc giáp sắt, cầm roi sắt và leo lên ngựa sắt. Nó vỗ vào mông ngựa, ngựa hét vang phun một lường bão lửa về phía trước. Trông thằng Gióng giờ đây oai phong lẫm liệt như tướng nhà Trời. Nó khẽ gật đầu chào mọi người rồi phi như bay ra nơi có giặc.

Nghe mấy người đi theo Gióng, cùng Gióng giết giặc kể lại thì nó đã cầm roi sắt tả xung hữu đột vào giặc chết như rạ. Đang xông xáo như vậy thì ro sắt va vào đá núi và bị gãy. Gióng nhà tôi mới nhổ mấy bụi tre bên đường quật nốt đám tàn quân còn lại. Nó truy đuổi giặc đến núi Ninh Sóc và tại đây nó cởi áo giáp sắt để ngay ngắn trên tản đá rồi cùng ngựa sắt bay về Trời.

Mọi người đã lập đền thờ ngay trong làng. Và vua Hùng cũng phong cho con tôi là Phù Đổng Thiên Vương.

Nghe nói ở Gia Bình có những bụi tre đằng ngà màu vàng óng. Chính ngựa Gióng đã phun lửa mà nó cháy sém như vậy đấy.

Và bà con có biết không? Những ao hồ chi chít ở đại phương ta là dấu chân của con ngựa sắt ghê gớm mà Gióng cưỡi đấy. Tôi cũng muốn lưu ý mọi người cái làng Cháy hiện nay sở dĩ có tên gọi như vậy là do ngựa Gióng phun lửu và đốt rụi cả một làng. Cũng may bà con đã chạy giặc hết rồi không thì thật là thảm họa.

Vợ chồng tôi rất tự hào vì đã có một đứa con dũng cảm giết giặc bảo vệ cuộc sống ấm no cho mọi người. Chúng tôi thật tự hào mởi mỗi lúc ra đường mọi người đều kính nể và nói: “Hai người ấy là cha mẹ của Phù Đổng Thiên Vương đó”. Đó bà con hãy chờ coi, Thằng Gióng nhà tôi trước lúc bay về trời nó nhắn rằng khi nào cha mẹ già yếu nó sẽ trở lại chăm sóc chúng tôi. Chúng tôi đang chờ, và cái ngày ấy rồi sẽ đến thôi phải không bà con?

SAU KHI DẸP XONG GIẶC, THÁNH GIÓNG LÊN THIÊN ĐÌNH BÁO CÁO VỚI NGỌC HOÀNG VỀ CHIẾN CÔNG CỦA MÌNH. EM HÃY TƯỞNG TƯỢNG VÀ KỂ LẠI CÂU CHUYỆN ĐÓ.

Vừa đặt chân lên thiên đình, Thánh Gióng đã được cả triều đình đón tiếp long trọng. Một bữa tiệc tưng bừng được tổ chức mừng Thánh Gióng hoàn thánh nhiệm và mà Ngọc Hoàng giao phó. Ban tặng rượu quý cho Thánh Gióng xong, Ngọc Hoàng ân cần hỏi:

– Hãy báo cáo cho trẫm và cả triều thần được biết, khanh đã làm gì với lũ giặc để cứu nước Văn Lang khỏi ách ngoại xâm?

Thánh Gióng từ tốn đáp:

– Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, nhận được ân đức của Ngọc Hoàng, thần đã đầu thai làm con một gia đình rất tốt bụng ở làng Gióng. Đến lúc đất nước có biến, thần đã cất tiếng nói xin đi đánh giặc. Thật sự lúc đó, thần đã làm cho mọi người, nhất là sứ giả và mẹ thần ngạc nhiên. Sau đó để có thể lấy lại sức mạnh, thần đã được sự giúp đỡ của cả dân làng. Ai có gạo góp gạo, có cà góp cà, có vải góp vải may áo cho thần. Thần đã ăn rất nhiều gạo, nhiều cà của những người dân trung hậu, tốt bụng, yêu nước của làng Gióng và có được sức mạnh của một dũng sĩ. Khi sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, thần đã vươn vai trở về đúng vóc dáng của mình trong sự vui mừng và ngạc nhiên của mọi người.

Phải nói dân Văn Lang rất biết chết tác đồ sắt. Họ đã làm ngựa, áo, roi rất đẹp, tinh xảo lại chắc chắn.

Với sức lực và vũ khí tốt, thần đã làm cho kẻ thù kinh sợ. Roi sắt của thần tiêu diệt không biết bao nhiêu kẻ thù. Vì sử dụng nhiều nên roi sắt gãy. Không hề nao núng, thần nhổ những bụi tre bên đường quật túi bụi vào giặc. Cây cối của Văn Lang cũng là vũ khí lợi hại để giết giặc, chũng chết như ngả rạ, giẫm đạp lên nhau, chạy bán sống, bán chết. Thần đã đuổi hết chúng khỏi Văn Lang, để lại giáp sắt bay thẳng về đây để báo cáo với Ngọc Hoàng.

Nghe Thánh Gióng nói xong, Ngọc Hoàng cười hài lòng:

– Khanh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của trẫm, khanh thật đáng khen. Không chỉ có phần thưởng trên thiên đình, khanh còn được nhân dân Văn Lang muôn đời nhớ ơn, lập đền thờ tại làng Gióng, đền Sóc. Khanh xứng đáng được hưởng tất cả những điều đó!

Thánh Gióng tạ ơn của Ngọc Hoàng và xin lui về nghỉ ngơi sau trận chiến đấu vất vả vì đất nước Văn Lang.

EM HÃY KỂ LẠI TRUYỆN THÁNH GIÓNG THEO VĂN BẢN ĐÃ HỌC TRONG SÁCH (VĂN HỌC 6 – TẬP 1).

Ngày xưa dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành mà chưa có đứa con nào để nối dõi. Một hôm, bà lão ra đồng sớm, thấy trên mặt đất có nhiều dấu chân lớn, bà bèn ướm thử bàn chân mình lên. Không ngờ về nhà bà thụ thai.

Bà lão mừng lắm, mong đợi mãi đến nười hai tháng sau mới sinh ra một đứa con trai. Đứa bé mặt mũi rất khôi ngô, Nhưng kỳ lạ thay đến năm lên ba mà bé vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chẵng biết đi, đặt đâu thì nằm đó.

Năm ấy, giặc Ân tràn vào nước ta, cướp bóc, chèm giết, làm cho dân ta rất điêu đứng. Vua Hùng cử sứ giả đi khắp nơi trong nước, rao truyền tìm người ra giúp vua đánh giặc. Khi sứ giả đến làng Gióng, nghe tiếng rao, đứa bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Bà lão kinh ngạc quá bèn làm theo. Đứa bé nói với sứ giả: “Ông về tâu vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, một áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan giặc”. Sứ giả mừng rỡ, tức thì trở về triều. Nhà vua nghe tâu, truyền ngay thợ rèn ngày đêm làm gấp các thứ chú bé đã dặn.

Sau lúc gặp sứ giả, chú bé bắt đầu lớn nhanh vùn vụt. Cơm ăn mấy cũng không no, áo may xong mặc vào đã chật. Thóc gạo của cha mẹ không đủ nuôi chú bé ăn. Dân làng rủ nhau góp thêm thóc gạo để nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú bé giết giặc cứu nước.

Lúc ấy, quân giặc đã tiến đến chân núi Trâu gần kinh thành, tình thế rất nguy hiểm. Ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt vừa rèn xong, vua cho đưa ngay đến làng Gióng. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ cao lớn, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc áo giáp. cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, giết giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những bụi tre bên đường quật vào giặc. Giặc tan tác, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc, rồi một mình muột ngựa chạy lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt bỏ lại. Tráng sĩ cùng ngựa từ từ bay vút lên trời.

Xem thêm:  Đóng vai Lê Thận kể lại chuyện sự tích Hồ Gươm

Vua nhớ công ơn của tráng sĩ phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà.

Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm làng đều mở hội to vào tháng tư, mọi người từ khắp nơi tưng bừng về tham dự. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy nên có màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.

EM HÃY KỂ RÚT GỌN TRUYỆN THÁNH GIÓNG (VĂN HỌC 6 – TẬP 1)

Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành mà chưa có đứa con nào để nối dõi. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên những vết chân lạ, về nhà mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, cười nói.

Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.

Nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xong thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.

Roi gãy, tráng si8x nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẫn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.

Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.

BẰNG LỜI VĂN CỦA MẸ GIÓNG, EM HÃY KỂ SÁNG TẠO TRUYỆN THÁNH GIÓNG (VĂN HỌC 6 – TẬP 1).

Năm đó, đời Hùng Vương thứ sáu, vợ chồng tôi sống lương thiện, chí thú làm ăn ở làng Gióng này. Tuy tuổi đã cao, nhưng chúng tôi vẫn chưa có mụn con nào.

Một hôm ra đồng, tôi bỗng thấy một dấu chân ai to lớn dị thường. Ngạc nhiên, tôi liền đặt chân mình ướm thử vào đó, đâu ngờ, về nhà lại mang thai.

Hồi hộp chờ đợi mãi đến mười hai tháng sau, tôi mới sinh ra được một thằng bé, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. CÒn gì vui mừng hơn nữa đối với vợ chồng tôi khi ấy. Nhưng chúng tôi lại lo lắng hết sức vì lên ba tuổi mà con mình vẫn nằm một chỗ chưa biết đi, đứng, cười, nói gì cả.

Bỗng một hôm, sứ giả của nhà vua về làng báo tin giặc Ân từ phương Bắc tràn sang quấy nhiễu nước ta, ai là người hiền tài hãy mau ra đánh giặc, cứu nước, giúp dân. Thằng bé con tôi nghe thấy, bỗng nhiên cất được tiếng nói, bảo tôi: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con”. Ngạc nhiên và hết sức mừng rỡ, tôi làm ngay theo ý nó. Sứ giả vào, nó bảo ngay: “Ông về tâu với đức vua đúc cho ta ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt để ta phá tan lũ giặc”. Nói sao hết nỗi vui mừng của tôi khi ấy. Cũng từ đây, thằng bé lớn nhanh như thổi cơm bao nhiêu ăn cũng không đủ no, áo mới mặc vào đã căng đứt chỉ. Thấy hai vợ chồng tôi lo không xuể, bà con hàng xóm đã rủ nhau gánh gạo, gánh cà đến giúp, cùng nuôi mong cho con trai tôi ăn no chóng lớn để đánh giặc.

Bấy giờ, giặc Ân đã tràn đến núi Trâu, mọi người ai cũng hốt hoảng. Vừa lúc sứ giả đến, thằng bé nhìn thấy liền vùng dậy vươn vai trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt, cao lớn phi thường. Nai nịt xong, nó cầm roi lên ngựa. Con ngựa sắt, miệng phun lửa, phi thẳng đến chỗ có giặc. Dưới làn roi sắt vun vút vung lên của con tôi, lũ giặc chết như rạ. Giặc Ân thua to, tan vỡ, những đứa còn sống sót đạp lên nhau tìm đường tẩu thoát. Con tôi đuổi theo bọn chúng đến tận chân núi Sóc. Phá tan giặc rồi, con trai tôi dừng lại, cởi bỏ áo giáp, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời để lại cho vợ chồng tôi niềm thương nhớ khôn nguôi.

Vua Hùng nhớ ơn người đuổi giặc đã phong cho con tôi là Phù Đổng Thiên Vương, lại cho dân làng lập đền thờ. Từ đó, hàng năm cứ đến tháng tư, mọi người khắp nơi đổ về đây mừng ngày hội Gióng tưng bừng, nhộn nhịp.

Tôi cũng nghe nói ở vùng Gia Bình, những bụi tre đằng ngà bị lửa ngựa phun cháy xém ngày nào nên đã ngả màu vàng óng. Những dấu chân ngựa sắt thì tạo thành những ao hồ liên tiếp nhau. lại cũng nghe nói có một làng bị lửa ngựa phun cháy ngày nào từ đó đã được đặt tên là làng Cháy.

TRUYỆN CỔ DÂN GIAN VIỆT NAM THẤM ĐẪM MÀU SẮC THẦN KỲ. HÃY KỂ LẠI MỘT TRUYỆN CỔ MANG MÀU SẮC THẦN KỲ MÀ EM YÊU THÍCH.

Ở thôn Gióng Mốt, xã Phù Đổng có một dấu chân khổng lồ in trên một tảng đá lớn. Đố là dấu chân ông Đổng về hái cà trông một đêm mưa gió.

Tục truyền rằng ông Đổng cao lớn lạ thường: đầu đội trời, chân đạp đất, vai chạm mây. Ông cào đất thành đồng ruộng, vun đá thành đồi gò, xẻ cát thành sông bãi. Ông bước chân dài từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác. Dấu chân ông lún cả đá, thủng cả đất. Tiếng nói ông vang ầm thành sấm. Mắt ông sáng lóe chớp lửa. Hơi thở phun ra mây đen, gió bão và mưa giông. Ông hay hiện lên trong những ngày đầu hè có giông, lúc cà đã đậu trái, lúc chiếp sắt trổ đòng. Ông đi đủ mọi chiều, lúc tốc thẳng, lúc xoai vòng. Ông đi đằng tây sang đằng đông là bão tây. Ông đi đằng đông sang đằng tây là bão đông. Ông làm dập hết lửa, rụng hết cà v&a

Theo Dethihay.com

Check Also

c879b28906e31e1d66d06429d0158f1c 310x165 - Soạn bài Cô Tô Ngữ văn 6

Soạn bài Cô Tô Ngữ văn 6

Tác giả Nguyễn Tuân luôn luôn được biết đến chính là một trong những nhà …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *