Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Bình Phước
Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện, kể về Vân Tiên sau khi nghe tin mẹ mất đã bỏ khoa thi, cùng tiểu đồng vội vã trở lại quê nhà để chịu tang. Đang bơ vơ nơi đất khách thì hai người lại gặp Trịnh Hâm ở phần đầu tác phẩm, tác giả kể rằng khi Trịnh Hậm và Bùi Kiệm đến trước trường thi, gặp Vân Tiên và Tử Trực liền kết bạn và cùng nhau vào một quán rượu xướng hoạ thơ phú. Thấy Vân Tiên tài cao, xuất khẩu thành thơ, Trịnh Hâm lo lắng không yên:
Kiệm, Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Lòng ganh ghét, đố kị đó đã biến Trịnh Hầm thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm, ngay cả khi Vân Tiên không còn khả năng đe dọa bước đường công đanh của hắn. Nói như nhà nghiên cứu Hoài Thanh: Mối oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ.
Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn thể hiện sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn; đồng thời thể hiện thiện cảm của tác giả đối với những người nghèo mà giàu lòng nhân ái.
Bố cục đoạn trích chia làm hai phần: Tám câu thơ đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm. Phần sau miêu tả việc làm nhân đức, cuộc sống trong sạch và nhân cách cao cả của ông Ngư.
Ngoài Lục Vân Tiên là nhân vật chính còn có hai nhân vật phụ là Trịnh Hâm, tiêu biểu cho kẻ ác và ông Ngư tiêu biểu cho người thiện: Cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không mạnh mẽ như ở đoạn Lục Vân Tiên đánh cướp mà nhẹ nhàng, thấm thía, đẹp như trong truyện cổ, vẻ đẹp của cái thiện toả ra từ nhân vật ông Ngư, với cuộc sống an bần lạc đạo: Thuyền nan một chiếc ở đời…
Lúc này, dường như thầy trò Vân Tiên lâm vào bước đường cùng nơi đất khách. Tiền thì hết, mắt đã mù. Gặp lại Trịnh Hâm, Vân Tiên mừng vì tưởng được giúp đỡ, nhất là khi nghe hắn hứa sẽ đưa về tận nhà. Không ngờ Trịnh Hâm lừa Tiểu Đồng vào rừng, trói vào gốc cây. Sau đó, hắn nói dối Vân Tiên là Tiểu Đồng đã bị cọp vồ. Vân Tiên chi còn trơ trọi một mình.. Lúc này, kẻ tiểu nhân mới thực hiện hành vi tàn độc:
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dặy lấy Lời phui pha.
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng
Vì sao Trịnh Hâm cố tình hãm hại Vân Tiên? Nguyên nhần do hắn đố kị, ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên và lo cho con đường tiến thân của mình bị người khác cản lối. Khi mối lo đó không còn vì Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn tìm cách hãm hại, chứng tỏ sự ác độc dường như đã thấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất cua hắn. Cái ác không có giới hạn, kẻ ác không bao giờ chùn tay.
Hành động của Trịnh Hâm vừa bất nhân, vừa bất nghĩa. Độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hâm hại một con người tội nghiệp trong cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có khả năng tự vệ. Bất nghĩa vì Vân Tiên từng coi hắn là bạn, từng trà rượu, xướng hoạ thơ phú cùng nhau, Vân Tiên cũng đã có lời nhờ cậy: Tiên rằng: tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen nầy và hắn cũng từng hứa hẹn: Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Hành động độc ác của Trịnh Hâm được hắn mưu tính, sắp xếp khá kĩ lưỡng. Thời gian gây tội ác là Đêm khuya lặng lẽ như tờ, khi mọi người đã ngủ yên. Giữa trời nước mênh mông mịt mờ sương bay, Vân Tiên bị xô ngay xuống vời, hoàn toàn bất ngờ, không kịp kêu lên mội tiếng. Đến lúc biết là không ai có thể cứu được Vân Tiên thì Trịnh Hâm mới giả tiếng kêu trời, rồi kể lể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm gian ngoan, xảo quyệt đã phủi sạch tay mà không mảy may cắn rứt lương tâm.
Chỉ qua tám dòng thơ, tác giả đã miêu tả tội ác tày trời và bóc trần tâm địa của một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Đoạn thơ giống như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, tình huống, diễn biến và được kể bằng ngôn ngừ chân thực, tự nhiên, gây xúc động mạnh. Người đọc, người nghe càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì càng căm ghét gã Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu!
Trái với hình ảnh Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác là hình ảnh ông Ngư và gia đình ông tiêu biểu cho cái thiện. Cả gia đình vất vả trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé nhưng nhân cách và quan niệm sống của họ mới rộng lớn, cao cả làm sao! Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng nhân ái, hào hiệp của ông Ngư. Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống đói nghèo hẩm hiu tương rau nhưng đầm ấm tình người. Ông cứu người mà chẳng hề tính toán: Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Cái Thiện được biểu hiện trọn vẹn và ngời sáng qua việc làm nhân đức và tính cách cao cả của ông Ngư.
Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn vớt ngạy lên bờ rồi:
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Sự việc được kế lại ngắn gọn nhưng thể hiện được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với chàng trai họ Lục.
Cả gia đình ông lão mỗi người một việc, lo cứu sống người. Không cần biết nạn nhân đó là ái, cứ thấy bị nạn là cứu, thấy việc nghĩa là làm. Đó là bản chất cao quý của những con người lao động nghèo khó, lương thiện. Khi Lục Vân Tiên tỉnh dậy, xúc động kể lại sự tình và bày tỏ lòng biết ơn:
Nay đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình nầy tra trơ.
thì Ngư ông đáp luôn:
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Lời lẽ của ông Ngư bộc trực, khảng khái, đúng là cung cách và giọng điệu của người dân Nam Bộ, nghe thấm thía vô cùng. Ông không hề có ý nghĩ làm ơn sẽ được đền đáp bằng tiền bạc, của cải. Ông chỉ dốc lòng nhân nghĩa, cứu người gặp nạn. Hành động và lời nói của ông Ngư thật hào hiệp, vô tư. Nghe Vân Tiên kể về tình cảm éo le, đau khổ của chàng, ông lão thương đứt ruột, hành động cứu người của ông tuy lặng lẽ, âm thầm nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp Lục Vân Tiên thoát khỏi bàn tay tàn độc của Trịnh Hâm. Trái tim nhân hậu của ông Ngư thật đáng kính trọng biết bao!
Cái thiện còn được biểu hiển qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư. Quan điểm của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là những ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống phóng khoáng giữa trời cao đất rộng, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng… Con người tự do, tự tại nên tâm hồn vui vẻ, nhân hậu, khác xa với những kẻ sống trong những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa…
Trên chiếc thuyền nan bé nhỏ, mong manh ấy, ông Ngư đã sống cuộc sống thật ý nghĩa. Ngỡ như không phải ông nói, mà là đang ngân nga cất tiếng hát ca ngợi lối sống thanh cao của những bậc chính nhân quân tử trọng nghĩa khinh tài. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ nghe như có tiếng phách, tiếng đàn thong thả đệm theo lời ông già Nam Bộ hát Vân Tiên. Hát rằng:
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng…
Đây là một trong những đoạn thơ hay của tác phẩm. Ý thơ phóng khoáng, sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm. Vũ trụ bao la, thiên nhiên tuyệt mĩ với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, mặt đất, gió trăng… Con người hoà nhập trong cảnh đẹp ấy không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… Tác giả sử đụng rất nhiều từ miêu tả trạng thái tâm hồn thanh thản của ông Ngư; vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say… Tưởng như chính nhà thơ đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.
Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước đề rửa ruột sạch trơn, tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh…, ông Ngư đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Gia đình, nhà cửa, cả thân xác lẫn tâm hồn như đã hoà làm một với biển trời, sông nước. Cặp từ hứng gió, chơi trăng phác hoạ hình ảnh con người lao động nhưng lại có tâm hồn bay bổng, mơ mộng của một thi nhân. Mơ mộng nhưng cũng rất chủ động, ung dung:
Một mình thong thả làm ăn
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.
Câu thờ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những mái chèo khỏa nước lúc nhặt lúc khoan, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ. Cuộc sống tự đo của ông Ngư hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao!
Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông Ngư nói đến chữ vui: vui vầy, vui thầm rồi vui say. Lúc nào cũng vui, càng lúc càng vui. Đi đây đi đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè gặp bạn thì vui vầy. Giừa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn vui thầm. Ý thức sâu sắc về lối sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này là động lực đế ông vui say, nghĩa là lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ông Ngư càng bay bổng. Men rượu đă ngấm, hồn thơ cất cánh, ông Ngư đã hoá thành triết gia, thành nghệ sĩ:
Kính luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thế vui say trong trời
Thuyền non một chiếc ở đời,.
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.
Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa sông dài biển rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ông Ngư gắn liền với chiếc thuyền nan ấy. Hình ảnh chiếc thuyền nan cũng như hình tượng nhân vật ông Ngư được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nên từ sự thăng hoa của cảm hứng lãng mạn. Dường như nhà thơ đả nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, hoà hợp với đất trời. Cuối đoạn trích, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như ánh trăng trải trên mặt nước, như mặt nước được mái chèo nhẹ nhàng khua động lung linh.
Trong văn chương thời trung đại, hình tượng Ngư – Tiều dường như đã được dùng để ám chỉ những ẩn sĩ muốn trốn tránh cuộc đời đen bạc, nhiễu nhương, tìm về với thiên nhiên trong sáng: Ôm tài giấu tiếng làm Tiều, làm Ngư (Ngư-Tiều y thuật vấn đáp).
Nguyền Đình Chiểu rất quen thuộc với bút pháp ước lệ cổ điển, cho nên qua những lời nói của ông Ngư, ông Tiều, ta thấy bóng dáng của họ giống ẩn sĩ hơn là người lao động bình thường (Kinh luân đã sẵn trong tay). Tuy nhiên, cảm xúc của người đọc, người nghe đối với những nhân vật này không hoàn toàn là thế. Ông Ngư trong đoạn thơ này và ông Tiều trong đoạn thơ sau cùng có một cách nói giống nhau về cuộc sống của mình:
Tiều rằng: vốn lão tình không,
Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gai mặc lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quý mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.
Họ hiện diện giữa đời sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự bạc đen, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn và bao giờ cũng có mặt đúng lúc để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghĩa khinh tài: Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: Với Đồ Chiểu, những người lao động ấy cũng là những người có tài, ghét đời ô trọc mai danh ẩn tích.
Đọc truyện thơ Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta còn gặp những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất tốt đẹp của người lao động và đạo lí truyền thống dân tộc. Ông Ngư – nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn cửa nhà của Nguyền Đình Chiều?
Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn là kiểu kết cấu thông thường ở các truyện cổ dân gian. Ở đây, người tốt thường gặp hoạn nạn, bị hãm hại nhưng lại luôn được cứu giúp có khi là con người (ông Ngư), có khi là thần linh (giao long). Kiểu kết câu này còn được lặp lại ở một sô tình tiết khác, nhưng truyện vẫn không bị coi là nhàm chán. Bởi nó thế hiện niềm tin và ước mong của những con người bị áp bức, khó bề chống đỡ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công. Niềm tin ấy xuất phát từ triết lí nhân sinh đã thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bao đời nay: Ở hiền gặp Lành.
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Bài làm số 2
Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng mành trôi nổi giữa dòng sông lớn rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ngư ông gắn với chiếc thuyền ấy. Chẳng những ông không sợ, trái lại lúc nào cũng ung dung, lấy nước mưa để tắm rửa thân mình, mượn gió mát để chài tóc, vuốt râu.
Phải chăng, để định hướng cho người đọc tập trung chú ý vào nhân vật chính của cuốn truyện thơ “Lục Vân Tiên” các tác giả sách giáo khoa đặt tên cho đoạn trích từ câu 938 (Đêm khuya…) đến câu 976 (… trong vời Hàn Giang) là “Lục Vân Tiên gặp nạn”? Nếu được phép góp ý, tôi chọn tên khác: “Gặp nạn, Lục Vân Tiên được thần và dân cứu giúp “, “Người hiền gặp người hiền”, hoặc “Ngư ông cứu giúp Lục Vân Tiên”. Gọi bằng những tên ấy vì tôi cảm nhận thật rõ ràng, ở đoạn truyện này. hình tượng Lục Vân Tiên mờ đi chút ít. Trái lại, hai nhân vật phụ: Trịnh Hâm – tượng trưng cho kẻ ác và ngư ông – tiêu biểu cho người thiện – đậm nét hơn. Tại đây, cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không sôi động như đoạn Vân Tiên đánh cướp. Nó nhẹ nhàng mà thấm thía, đẹp như trong truyện cổ tích, trong những giấc mơ, vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng đó tỏa ra từ nhân vật ngư ông. “Thuyền nan một chiếc ở đời”… cả gia đình, cuộc sống, việc làm, những nỗi niềm buồn vui, tâm sự của người bình dân ấy thu lại trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé, đơn sơ mà sao nhân cách con người, quan niệm về cuộc sống của ông rộng lớn, thanh cao đến thế.
Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Chài nhanh nhẹn “vớt ngay lên bờ”, rồi:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Cả gia đình ông lão quây quanh nạn nhân. Mỗi người một việc, gấp gáp, khẩn trương, hết mình vì sự sống của nạn nhân. Khung cảnh ấy mới cảm động làm sao. Việc làm ấy mới đẹp đẽ làm sao. Chưa biết nạn nhân là ai, chưa rõ nguyên cớ thế nào, nhưng thấy việc là làm, thấy người là cứu. Đó là bàn tính của những con người lương thiện, những người lao động bình thường. Vì vậy, khi Vân Tiên – người bị nạn – tỉnh dậy, xúc động kể mọi sự tình, tỏ lòng biết ơn, ngư ông đáp luôn:
“… lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn”.
Lời ông lão dứt khoát, bộc trực, đúng cách nói của người lao động, đúng giọng điệu của vùng quê Nam Bộ, nghe thấm thía tận cõi lòng. “Lòng lão chẳng mơ” là ông không ham muốn, ước mơ, mộng mị chút nào về tiền bạc, của cải. Ông chỉ “dốc lòng nhân nghĩa”, thương người, cố hết sức cứu giúp con ngườị, luôn tìm việc nghĩa, hướng về điều thiện, thật hào hiệp, vô tư. Thấy Vân Tiên sống lại, nghe chàng kể những nỗi khổ đau, ông lão vừa vui mừng, vừa thương xót. Do đó lời ông mới chân thành cảm động đến thế. Cứu được Lục Vân Tiên, ngư ông đã giành lại sự sống cho một người lương thiện, đã làm một việc nhân nghĩa. Việc làm ấy hoàn toàn trái ngược với việc làm và dã tâm của Trịnh Hâm. Hành động của ông tuy lặng lẽ, âm thầm, trên một chiếc thuyền nan mỏng manh, nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp cho điều thiện, người thiện chiến thắng cái ác, bọn người độc ác. Đáng kính, đáng trọng xiết bao!
Đáng kính đáng trọng hơn nữa là, cũng vẫn trên chiếc thuyền nan ấy, ngư ông đã sống một cuộc sống, và nghĩ suy, quan niệm về cách sống thật đẹp đẽ. Chúng ta hãy xuống thuyền cùng Lục Vân Tiên chuyện trò, tâm sự với người dân bình thường làm nghề vạn chài, sông nước ấy. Ngỡ như không phải ông nói, mà đang ngân nga cất tiếng hát. Trong âm thanh nhịp điệu của lời thơ, nghe như có tiếng phách tre, tiếng đàn kìm thong thả đệm theo. Hát rằng:
“Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng…”
Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về sông nước để “rửa ruột sạch trơn”, nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh, ngư ông đã chọn đuợc một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Tấm lòng ông trong sạch. Gia đình, nhà cửa, cả hình hài, thể xác lẫn tâm hồn như hòa nhập với biển trời, sông nước. Cặp từ “hứng gió”, “chơi trăng” dựng một hình ảnh con người đang mơ mộng, hệt như một thi sĩ vậy. Mơ mộng, nhưng không mơ hồ, tùy tiện. Trái lại ông rất chủ động, ung dung:
“Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm”.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những nhát chèo khua nước, nhặt khoan, khi mạnh mẽ, khi nhẹ nhàng. Lúc khỏe thì quăng chài, kéo lưới, mệt mỏi thì túc tắc buông câu. Thật là một tấm gương lao động cần cù, chăm chỉ, luôn luôn làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống. Sống trong sạch, phóng khoáng, làm chủ trong mọi công việc, tha hồ hưởng gió mát, trăng thanh, bồng bềnh trên sông nước. Cuộc sống ấy hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao. Trò chuyện với Vân Tiên, ba lần ông chài nói đến chữ “vui”: “vui vầy”, “vui thầm” rồi “vui say”. Lúc nào cũng vui, mỗi lúc một vui. Đi đây đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè bạn thì “vui vầy”, giữa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn “vui thầm”, ý thức sâu sắc về lẽ sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này, để “vui say”, sống lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, dám say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ngư ông càng bay bổng. Men rượu đã ngấm, hồn thơ đã cất cánh. Ngư ông hóa thành tiên ông, thành nghệ sĩ, nghệ sĩ dân gian của đất chín rồng, nhiều sông nước:
“Kinh luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thể, vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời
Tắm mưa, chải gió trong vời Hàn Giang”.
Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng mành trôi nổi giữa dòng sông lớn rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ngư ông gắn với chiếc thuyền ấy. Chẳng những ông không sợ, trái lại lúc nào cũng ung dung, lấy nước mưa để tắm rửa thân mình, mượn gió mát để chài tóc, vuốt râu. Hình ảnh chiếc thuyền nan, cũng như hình tượng nhân vật ông Chài, đến đây, thấm đầm cảm hứng lãng mạn, cảm hứng của nhân vật cũng là sự hứng khởi của tâm hồn nhà thơ. Dường như nhà thơ đã nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca vừa dãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ. tự tin, vui say hòa hợp với đất trời. Càng về cuối, âm điệu thơ càng dào dạt, sóng sánh như trăng hòa nước, như nước được mái chèo khua động rung rinh.
Đọc truyện thơ “Lục Vân Tiên”, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta bắt gặp rất nhiều nhân vật cao niên. Đó là những ông quán, ông tiều, ông ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất người lao động, chân dung cụ thể của đạo lí truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhân vật – nhất là nhân vật tích cực – bao giờ cũng là những mảnh tâm hồn của tác giả. Tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu chan chứa tình cảm nhân nghĩa. Ngư ông – nhân vật đcp nhất trong đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” phải chăng chính là một mảnh tâm hồn của nhà thơ?
“Thuyền nan một chiếc ở đời…”.
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu cũng mỏng manh, trôi nổi như chiếc thuyền cùa ngư ông. Song cuộc đời ấy không phút nào ngơi nghỉ truyền bá đạo lí làm người, đấu tranh chống xâm lược. “Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Trong bài “Than đạo”, ông đã viết như vậy. Truyện Lục Vân Tiên phải chàng là chuyến mở đầu trên con thuyền chở đạo cần cù, kì diệu ấy. ‘Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Vân thơ Nguyễn Đình Chiểu là như vậy” (Phạm Văn Đồng).
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Bài làm số 3
Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” là đoạn trích kể về cảnh ngộ éo le, đau khổ và khó khăn nhất của Lục Vân Tiên. Mẹ mất, thi cử dở dang, đôi mắt bị mù nhưng những đau khổ vẫn bủa vây khi bị chính những người bạn vì ghen ghét, đố kị hãm hại. Và nếu không nhờ đến sự giúp đỡ của Ngư ông thì có lẽ Lục Vân Tiên đã bỏ mạng nơi dòng sông rộng lớn, thăm thẳm ấy. Đoạn trích này vừa thể hiện được những thủ đoạn ti tiện, tàn nhẫn của những kẻ tiểu nhân, vừa làm người đọc ấm lòng vì lòng tốt của những người ngư dân, họ tuy nghèo nhưng có tấm lòng yêu thương, sống tình nghĩa, hết lòng cưu mang, cứu giúp Lục Vân Tiên.
Trong đoạn trích này, nhà văn Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa rõ nét tính cách ti tiện, tiểu nhân khi hãm hại Lục Vân Tiên. Ngay từ đầu tác phẩm, nhà văn cũng đã từng miêu tả hai nhân vật Kiệm, Hâm bằng vài nét song độc giả cũng đã phần nào hình dung được tính cách của hai nhân vật này:
“ Kiệm, Hâm là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng
Khoa này Tiên ắt đầu công”
Chỉ bằng đôi ba câu thơ nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã hé lộ cho người đọc thấy bản chất ghen ghét, đố kị của Kiệm, Hâm đối với tài năng của Lục Vân Tiên. Chính vì sự nông cạn trong hiểu biết, bất tài lại vốn có bản chất đố kị nên dù Vân Tiên đã bị mù đôi mắt, cũng không thể tham gia thi cử song hai tên Kiệm, Hâm vẫn đành tâm hãm hại đến cùng:
“Đêm khuya lặng lẽ như tờ
Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay”
“Đêm khuya” là thời điểm thích hợp để cho Trịnh Hâm thực hiện kế hoạch hãm hại đê hèn của mình. Không gian vắng lặng “lặng lẽ như tờ”, lại “mịt mờ sương bay”. Có thể nói cả thời gian và không gian đều thích hợp để cho Trịnh Hâm ra tay, bởi thời điểm đêm khuya là thời gian mà mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ, không gian lại mịt mù nên dù có hãm hại người thì “thần không biết, quỷ chẳng hay”. Quả là một kế hoạch tuyệt vời:
“Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời”
Quả như dự đoán, Trịnh Hâm đã lợi dụng thời gian đêm khuya, lại biết Vân Tiên đã không thể nhìn thấy nên đã ra tay rất nhanh gọn, dứt khoát “xô ngay xuống vời”. Sau khi lừa Vân Tiên là tiểu đồng bị bắt cóc ( thực chất là bị Trịnh Hâm lừa trói vào rừng), lợi dụng tình thế đơn độc, lại không thể nhìn rõ để ra tay, ta có thể thấy hắn là một kẻ vô cùng mưu mô, xảo quyệt. Nhưng không, hắn không dừng lại ở đó, sau khi rat ay hãm hại Vân Tiên, Trịnh Hâm còn dở trò “Mèo khóc chuột”, lớn tiếng la làng:
“Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy, lấy lời phôi pha”
“Giả tiếng kêu trời” bộc lộ sự giả tạo đến đáng khinh của Trịnh Hâm. Có lẽ, sự tình buổi đêm hôm nay là sự chuẩn bị rất chu toàn của hắn, bởi hắn không chỉ ra tay rất nhanh gọn mà còn chuẩn bị cả một bản kịch sau đó. Hắn tỏ ra mình là một kẻ vô tình phát hiện ra sự việc, và còn có lòng tốt kêu lên để mọi người biết “cho người thức dậy lấy lời phôi pha”.Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của hắn là đưa mình thoát ra khỏi danh sách bị tình nghi, tức là hắn đã tạo ra bằng chứng ngoại phạm cho mình. Nghe tiếng kêu của Trịnh Hâm, người trong thuyền xôn xao, hoảng hốt:
“Trong thuyền ai nấy kêu la
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”
Lục Vân Tiên vốn là một người hiền lành, tốt bụng, điều này cũng rất được lòng những người xung quanh nên khi biết Vân Tiên gặp nạn thì ai cũng “xót xa tấm lòng”, vô cùng thương tiếc cho chàng. Tuy nhiên,Trịnh Hâm được khắc họa với tính cách tiểu nhân, lươn lẹo, cả sự độc ác, vô lương tâm thì cũng ở trong đoạn trích này, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã xây dựng được những tấm lòng vị tha, nhân hậu của những con người rất đỗi bình thường song lại vô cùng trọng tình nghĩa. Mà cụ thể ở đây là gia đình của Ngư ông:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Nếu Trịnh Hâm lên cả một kế hoạch dài, diễn cả một vở kịch để hại người thì gia đình Ngư ông thấy người bị nạn, không hề suy tính, so đo mà dốc hết sức cứu người xa lạ. Các từ như “hối con”, “ông hơ bụng dạ”, “mụ hơ mặt mày” thể hiện được sự gấp gáp, khẩn trương của hành động cứu người. Dù không hề biết Vân Tiên là ai, nhưng gia đình ông lão vẫn tận lòng cứu giúp bằng cả tấm lòng. Nếu ở trên ta thấy ghê sợ với hành động nhẫn tâm của Hâm thì đến đoạn thơ này ta lại cảm động, thấy ấm lòng vì tấm lòng thương người của gia đình ông lão.
Khi được gia đình Ngư ông cứu giúp, Vân Tiên đã rất cảm động trước những tấm lòng đẹp đó và trăn trở không biết lấy gì ra mà báo đáp thì câu nói của ngư ông càng làm cho vẻ đẹp phẩm chất của ông đáng được trân trọng:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”
Đến đây, ta cũng có thể thấy được sự tương đồng trong quan điểm sống của Ngư ông và Lục Vân Tiên. Vân Tiên cũng quan niệm “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Có lẽ, vì tấm lòng nhân đức, giúp người một cách vô tư mà Vân Tiên cũng được báo đáp, đúng như câu nói “Ở hiền gặp lành”. Ở lại với gia đình Ngư ông, Lục Vân Tiên đã cảm nhận được cái bình yên, tìm kiếm được ý nghĩa của cuộc sống, cũng suy nghĩ thông suốt được nhiều việc:
“Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi cho sờn lòng đây
Rày doi mai vịnh vui vầy
Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng”
Đoạn thơ thể hiện được sự thanh thản, vô tư khi sống cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, những khúc mắc, những điều trăn trở, u uất trong lòng cũng được Vân Tiên gỡ bỏ “rửa ruột sạch trơn”. Và với Vân Tiên, danh lợi bây giờ cũng chỉ là thứ phù hoa, không thể “sờn lòng đây”. Cuộc sống ẩn dật, vui sống với cuộc sống lao động bình thường, nhịp sống của cuộc sống ẩn dật tự do tự tại mới thực sự là ý nghĩa.
Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” là một đoạn trích khá hay trong tác phẩm. Ở đây, nhà văn Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được bức tranh đối lập về hai kiểu người, hai loại nhân cách. Một bên là Trịnh Hâm xấu xa, vô tình, sẵn sàng hãm hại người vì đố tị, ganh ghét. Một bên lại là những con người lao động vô cùng bình thường, không màng danh lợi, chức tước, sống giản dị nhưng lại vô cùng tình nghĩa, đạo đức. Qua đoạn trích ta cũng thấy được sự tinh tế của nhà văn khi đi xây dựng nhân vật, tình huống, cốt truyện của Nguyễn Đình Chiểu.
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Bài làm số 4
Lục Vân Tiên là một trong những truyện đặc sắc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm nói về cuộc đời của nhân vật Lục Vân Tiên- một người người chính trực, văn võ song toàn với những đức tính tốt bụng và thật thà. Lục Vân tiên là tiêu biểu cho những người con miền Nam luôn giàu lòng nhân ái, do đó, chàng sau này đã có một kết quả hạnh phúc. Sau đây là đoạn trích miêu tả cảnh Lục Vân tiên gặp nạn do bị Trịnh hâm hãm hại và được những người dân tốt bụng cứu giúp.
Mở đầu đoạn trích là phân cảnh Lục Vân Tiên bị Trinh hâm hãm hại bởi hắn ganh ghét với những gì mà Lục Vân tiên có, hắn sợ chàng sẽ hơn mình rồi nhẫn tâm làm hại chàng mặc dù khi ấy chàng đã không còn khả năng đe dọa những bước tiến công danh của hắn. Cả đoạn thơ là sự đối nghịch và nối bật của hai kiểu người, đó là thiện và ác. Qua đó, tác giả thể hiện sự khinh thường với những kẻ luôn ganh ghét người khác và nói lên những thiện cảm của mình đối với những con người tốt bụng.
Đoạn đầu tiên là cảnh Lục vân tiên khi ấy đã bị mù sau khi về tang mẹ, lúc này chàng chỉ có một tiểu đồng bên người. Gặp được Trịnh Hâm, chàng tưởng mình gặp được người giúp đỡ, ai ngờ vì kẻ tiểu nhân mà hắn đã trói tiểu đồng ở trong rừng rồi đẩy Vân tiên xuống nước.
Đêm khuya lặng lẽ như tờ
Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân tiên bị gã xô ngay xuống vời
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy lấy lời phui pha
Trong thuyền ai nấy kêu là
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng
Nguyên nhân mà Trịnh Hâm hãm hại Lục vân tiên chính là bởi do hắn đố kị và ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên. Dù khi ấy, Vân Tiên đã bị mù nhưng hắn vẫn không thể buông tha cho chàng. Tất cả những hành động của hắn chứng đỏ một điều hắn là một kẻ vô cùng ích kỉ và có lòng dạ cực kì độc ác.
Hành động bất nhân bất nghĩa của hắn đã khiến cho Vân Tiên, một người đang bị mù lúc đó rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vất vả. Nhưng thật may mắn, chàng đã được ông Ngư và gia đình của ông cứu giúp. Tác giả đã gọi là ông Ngư mà không phải là một cái tên riêng nào như thể hiện cho chúng ta rằng, trong cuộc sống này, không phải ai cũng là kẻ gian ác, có những người người vẫn rất tốt bụng mà đó không chỉ là một người mà là rất rất nhiều những con người như vậy. Cả gia đình ông Ngư tuy có cuộc sống vất vả, cả gia đình chỉ sống chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé nhưng những nghĩa khí của những con người ấy thì hơn hẳn bất kì ai. Họ luôn giàu lòng thương yêu con người và có những làm những việc thiện mà không hề trông chờ vào sự đền đáp của bất kì một ai cả.
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày
Chỉ với hai câu thơ nhưng hình ảnh giản dị mà chan chứa tình cảm thương yêu con người của gia đình ông Ngư đã hiện lên một cách rõ nét trong lòng người đọc. Đó là những con người với những tấm lòng cao cả, không quản ngại khó khăn vất vả chỉ mong cho những người bị nạn có thể cố gắng vượt qua sóng gió.
Nay đà trôi nổi đến đây
Không chỉ báo đáp mình nầy trơ trơ
Thì Ngư ông lại đáp luôn
Ngư rằng:” Lòng lão chẳng mơ”
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn
Với những lời lẽ bộ trực, khảng khái, đó chính là cách ứng xả và nói chuyện của những người dân Nam Bộ, luôn thẳng thắn vì biết hi sinh vì người khác. Và cũng nhờ có Ông mà Vân tiên mới có thể thoát khỏi những khó khăn trong lúc bản thân mình yếu ớt nhất.
Qua đoạn trích, chúng ta đã thấy được hai bộ mặt của hai con người, là sự đối đầu giữa thiện và ác. Những con người ấy luôn sống đan xen giữa cuộc sống này, có những người xấu nhưng xùng không ít những người tốt bụng. Từ đo chúng ta phải có những bài học cho riêng mình. Mặt khác, bài thơ cũng đã thể hiện được cho chúng ta hình ảnh của những người dân Nam Bộ hiền lành, tốt bụng.
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Bài làm số 5
Lục Vân Tiên vì thương khóc mẹ mà mù cả hai mắt, đang bị cảnh cùng quẫn thì gặp Trịnh Hâm hỏng thi trở về. Hâm hậm hực vì thua tài Vân Tiên, sinh lòng đố kị, bèn lập mưu hãm hại thầy trò Vân Tiên. Hắn lừa trói tiểu đồng vào cây cho hổ ăn thịt, lại lừa Vân Tiên lên thuyền để xô chàng xuống sông. Đoạn thơ này kể việc Vân Tiên bị xô ngã xuống sông, nhưng được giao long và vợ chồng ông Ngư (ông chài) cứu mạng. Việc Trịnh Hâm xô Vân Tiên xuống sông vẻn vẹn có tám dòng mà khắc họa được sự nham hiểm, giả dối của Hâm.
Khung cảnh ban đêm: “Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay” có cái gì không lành, nhất là những ngôi sao “nghênh ngang”. Xô ngã Vân Tiên xuống sông, Trịnh Hâm còn “giả tiếng kêu trời”, cho mọi người thức dậy để “lấy lời phôi pha” cho qua chuyện. Thế là hắn trà trộn vào đám người thương khóc Vân Tiên thật. Và mọi người cũng không ai nhận ra bộ mặt gian dối của Hâm. Đố kị tới mức hãm hại một người đã mù lòa, không còn khả năng hoạt động nữa, Trịnh Hâm đã hiện nguyên hình một kẻ ác độc, đê hèn, táng tận lương tâm. Việc giao long cứu dìu Vân Tiên vào bãi đà cho thấy loài thú vật còn tốt bụng hơn kẻ đố kị là con người như Hâm.
Cái cảnh cả nhà ông Ngư tíu tít cứu sống Vân Tiên thật là cảm động:
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Đúng là những người lao động chất phác bao giờ cũng biết quý trọng mạng sống con người. Đặc biệt hơn nữa, khi thấy hoàn cảnh Vân Tiên, ông Ngư đã nhận nuôi chàng:
Ngư rằng: ngươi ở cùng ta
Hôm mai hẩm hút một nhà cho vui.
Những tiếng “hơ”, “hẩm hút” thật chất phác dễ thương, hòa với tiếng “mùi” trong câu: “Thân tôi như thể trái mùi trên cây” của Lục Vân Tiên đã tạo thành một không khí dân dã mộc mạc.
Nhưng ông Ngư cũng là người sống theo đạo lí cao đẹp, cổ truyền, lấy câu “Kinh luân đã sẵn” làm phương châm sống:
Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn.
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế, vui say trong trời.
Ông Ngư là người sống theo lối hiền triết, một người đã hiểu hết kinh luân mọi đàng, nhưng nuôi chí sống ngoài vòng danh lợi. Ông tìm thú vui trong sự thanh thản với thiên nhiên. Trong 10 dòng thơ tỏ chí, ông Ngư đã nói đến chừ “vui” ba lần: vui vầy, vui thầm, vui say. Cả cuộc sống là một thú vui liên tục với thiên nhiên, lúc nào cũng vui chơi thảnh thơi:
Rầy doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm,
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Các chữ “rày”, “mai”, “ngày kia”, “đêm này”, khi “khỏe”, khi “mệt”, “nay”, “mai” thông báo một khoảng thời gian triền miên, liên tục, có thể nói là bất tận. Và chú ý thêm các chữ “doi”, “vịnh”, “gió”, “trăng”, “chích”, “đầm”, rồi “một bầu trời đất” bao quát một không gian bao la. Con người ngư ông như sống vĩnh viễn với đất trời rộng mở, vô tận. Cả đoạn văn này đã tạo thành một đối lập gay gắt giữa kẻ ham danh lợi tới mức độc ác, đố kị, hãm hại người tài và người ở ngoài danh lợi, sống hòa với thiên nhiên mênh mông, vô tận. Sự đối lập này vừa có tính chất đối lập ác và thiện như trong cổ tích, lại vừa có tính chất triết lí sâu xa của văn học bác học – đối lập giữa danh lợi, dối trá và tự do, thanh nhàn, trong sạch giữa thiên nhiên. Sự đối lập này đã bộc lộ đặc sắc tư tưởng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Hồng Loan tổng hợp