Dàn ý chi tiết Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông ngày hôm nay sẽ cung cấp đầy đủ cho các em học sinh kiến thức về đoạn trích ai đã đặt tên cho dòng sông.
Dàn ý chi tiết Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông gồm 4 ý chính đó là sông hương nhìn từ thượng nguồn, sông hương ở ngoại ô thành phố huế, sông hương ở trong lòng thành phố huế và sông hướng nhìn từ góc độ văn hóa lịch sử.
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
– Sinh năm 1937 tại t.p Huế
– Là một người con của xứ Huế.
– Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.
– Văn phong: “Nét đặc sắc … tài hoa” (tr197)
– Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách cùng tên
– Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần
+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn
+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.
– Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế.
II. Dàn Ý Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông.
1: Ý nghĩa nhan đề “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”
– “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và độc giả về với hành trình lịch sử tìm về cuội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “ Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, đẻ làn nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá lịch sử.
– Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả giàu sức gợi cảm thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện long yêu mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất chí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.
2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau:
Mở bài:
– Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm bút kí kiệt xuất của Hoàng Phủ Ngọc Tường
-Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sác thiên nhiên của song Hương
Thân bài:
* Từ thượng nguồn:
– Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.
+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
– Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Tiểu kết:
Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, đầy sức hấp dẫn.
* Về châu thổ:
– Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau (dẫn chứng…). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.
=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.
– Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ… > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế hoà lẫn vào nhau.+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
– Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Tiểu kết:
– Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình – sông Hương – đang say đắm trong tình yêu.
– Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa.
Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:
– Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
– Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
– Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…
Tiểu kết:
Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lí giải vẻ đẹp văn hóa phong phú của sông Hương, vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế.
* Sông Hương với lịch sử hào hùng:
– Là 1 dòng sông anh hùng:
•Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước
•Thời trung đại:bảo vệ biên giới phiá nam của tổ quốc
•Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa
•Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.
•Thời chống Mĩ:
– Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát.
Tiểu kết:
– Vừa là bản tình ca dịu dàng, Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh liệt của dân tộc.
Kết bài:
– Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ Huế, con người Huế.
-Tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.
– Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử ; giàu chất trữ tình lãng mạn.
3. Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Chất trí tuệ:
Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của mình.
“ Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”
cho đến câu thơ của Tản Đà “ Dòng sông trắng- lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều.
Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn, đến đồng bằng, cho đến cố đô Huế.
Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.
Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn minh Châu Âu.
Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.
* Chất thơ:
– Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.
“ Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và “ giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ sang đến Cồn Hiến, đường cong ấy làm cho dòng sông mền hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Hay “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ
Tham gia Khóa Học Cơ Bản Ngữ Văn Miễn Phí của Hocva12
Theo Dethihay.com