Soạn bài: Quan Âm Thị Kính – Ngữ văn 7 Tập 2
Hướng dẫn
I. Tác giả, tác phẩm
1. Về thể loại
Văn bản Quan Âm Thị Kính thuộc thể loại chèo. Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.
2. Xuất xứ
Văn bản Quan Âm Thị Kính là kịch bản của một vở chèo. Tuy chỉ là kịch bản nhưng Quan Âm Thị Kính và trích đoạn Nỗi oan hạichồng cũng thể hiện được những giá trị nghệ thuật nhất định, phần nào giúp chúng ta hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo, đặc biệt là về nội dung tư tưởng: những vấn đề mà vở chèo nêu ra, những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ xưa,…
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Đọc kĩ phần tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.
Câu 2:
Đọc kĩ trích đoạn Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản và các từ khó.
Câu 3:
* Trích đoạn Nỗi oan hại chồng gồm có 5 nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Cả 5 nhân vật này đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch, trong đó, Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo.
* Loại vai của các nhân vật:
- Thị Kính là nhân vật nữ chính, đại diện tiêu biểu cho người dân thường, đặc biệt là đại diện cho thân phận của người phụ nữ vốn phải chịu nhiều thua thiệt và bất hạnh trong xã hội cũ.
- Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác (mụ ác và nữ chính là hai nhân vật rất tiêu biểu, thường xuất hiện trong chèo), đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.
Câu 4:
* Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng, tuy không gân gũi và phổ biến với nhân dân như cảnh “chồng cày, vợ cấy” nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình của người dân.
* Qua lời nói và cử chỉ của nhân vật Thị Kính, em thấy Thị Kính là một người phụ nữ rất dịu dàng, hết mực yêu thương chồng. Khi chồng ngủ, dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng; thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng thì băn khoăn, lo lắng về sự dị hình chẳng lành.
=> Suy nghĩ và hành động của Thị Kính rất tự nhiên, thể hiện tình cảm nồng nàn và chân thực của một người phụ nữ yêu chồng.
Câu 5:
* Hành động của Sùng bà với Thị Kính rất tàn nhẫn, thô bạo: “dúi đầu Thị Kính xuống”, “bắt Thị Kính ngửa mặt lên”, “không cho Thị Kính phân bua”, “dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống”, “nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình”.
* Ngôn ngữ của Sùng bà thì toàn những lời nói đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả. Điều quan trọng là cách mắng chửi của Sùng bà với Thị Kính không phải là cách mắng chửi của một người bà mẹ chồng với cô con dâu của mình. Và có vẻ như mụ muốn đuổi Thị Kính vì lí do khác hơn là lí do giết chồng.
- Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Tuồng bay mèo mả gà đồng
- Nhà bà đây cao môn lệch tộc – Mày là con nhà cua ốc.
- Trứng rồng lại nở ra rồng – Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
=> Sùng bà là một con người độc ác, tàn nhẫn. Sử dụng những lời lẽ đay nghiến, miệt thị phũ phàng để phân biệt cao thấp, phân biệt sự sang hèn giữa vị thế gia đình bà và gia đình Thị Kính. Nội dung những lời lẽ đó đã vượt khỏi quan hệ gia đình, quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Từ đó, cho thấy quan niệm về giai cấp vẫn bám rễ trong hôn nhân phong kiến sâu sắc.
Câu 6:
* Trong đoạn trích, có 5 lần Thị Kính kêu oan, trong đó có 4 lần kêu oan là hướng về mẹ chồng và chồng:
- Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ ơi!
- Oan cho con lắm mẹ ơi!
- Oan cho thiếp lắm chàng ơi!
- Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!
Bốn lần kêu oan này đều vô ích bởi chồng thì nhu nhược, mẹ chồng thì cay nghiệt nên càng kêu, nỗi oan ức của Thị Kính lại càng đầy.
Và đến lần thứ 5, lần kêu oan cuối cùng, Thị Kính kêu oan với Mãng ông (cha đẻ của nàng). Lần này, Thị Kính mới nhận được sự thông cảm. Nhưng đó lại là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Cuối cùng thì nỗi oan của nàng vẫn không được giải, Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
Câu 7:
* Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn dựa lên một vở kịch lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, thực ra thì bắt ông sang dắt con về khiến cho cha con Mãng ông nhục nhã. Hơn thế nữa, còn thể hiện bằng những hành động vũ phu đối với cha con họ.
* Xung đột kịch trong đoạn trích này thể hiện cao nhất ở chỗ Mãng ông bị Sùng ông dúi ngã, Thị Kính chạy lại đỡ cha, hai cha con ôm nhau than khóc, Thị Kính bị đẩy lên tột cùng nỗi đau: oan ức, tan vỡ gia đình mà còn bị liên lụy cha bị khinh bỉ, bị hành hạ.
Câu 8:
* Qua cử chỉ, ngôn ngữ, có thể thấy, tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà:
- Lưu luyến, đau khổ khi phải xa chồng, phải chịu oan ức.
- Ngậm ngùi, xót xa cho thân phận hẩm hiu, số phận bất hạnh của mình.
* Việc Thị Kính “trá hình nam tử bước đi tu hành” để giải thoát đau khổ có 2 ý nghĩa gần như là đối lập nhau:
- Phải tiếp tục sống ở đời mới mong có thể tỏ rõ được con người đoan chính => ý nghĩa tích cực.
- Cho rằng số kiếp mình khổ nên tìm vào cửa thiền để cầu Phật tổ chứng minh lòng dạ thẳng ngay, tiêu trừ oan nghiệt => ý nghĩa tiêu cực, cam chịu cúi đầu trước hoàn cảnh bất công, oan trái của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
* Đây hoàn toàn không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì người phụ nữ này chưa đủ bản lĩnh để vượt lên hoàn cảnh, chỉ biết cam chịu bằng sự chịu đựng nhẫn nhục. Có thể nói, Thị Kính có đấu tranh nhưng sự đấu tranh của nàng chỉ dừng lại ở những lời than trách số phận và ước muốn “nhật nguyệt sáng soi” mà thôi.
Theo Dethihay.com