Đề bài: Soạn Bài Hai Chữ Nước Nhà Ngữ Văn 8 Của Trần Tuấn Khải
Bài làm
1. Giọng điệu của đoạn thơ:
Bài thơ là lời trăng trối của người cha với con trước giờ vĩnh biệt, trong bối cảnh đau thương nước mất, nhà tan. Nó nặng ân tinh và cũng tràn đầy nỗi xót xa, đau đớn. Phù hợp với nội dung này là một giọng thơ lâm li, thống thiết, nhiều lời cảm thán.
Thể thơ truyền thống song thất lục bát rất phù hợp với việc thể hiện giọng điệu đó. Cách ngắt nhịp và những thanh trắc nằm ở giữa hai câu 7, kết hợp với âm điệu của câu lục bát làm cho nhạc tính của từng khổ thơ trở nên phong phú hơn, rất thích hợp để diễn tả những tiếng lòng sầu thảm hay là những nỗi giận dữ, oán thán.
Thật đúng như ý kiến của thi sĩ Xuân Diệu: “Điệu song thất lục bát vốn là thể cha ông chúng ta xưa dùng để viết “ngâm khúc” những vần trắc (yêu vận) xô xát giữa câu, réo rắt, da diết, rất hợp để diễn đạt nỗi uất ức, nỗi căm giận, lời mắng nhiếc, tiêng thở than, sự nghĩ ngợi, nỗi ưu sầu… Tâm trạng xã hội khoảng năm 1926 uất ức bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ mà đòi hỏi một điệu thơ như song thất lục bát để toát, để thoát, để xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn.
2. Ý chính của mỗi phần
- Phần 1 (tám câu đầu): Tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ đau đớn, éo le.
- Phần 2 ( hai mươi câu tiếp theo): Hiện tình tang tóc đau thương của đất nước.
- Phần 3 (tám câu cuối): Thế bất lực của mình và lời trao gửi cho con trai.
3. Phân tích 8 câu thơ đầu
- Bối cảnh không gian: Cuộc chia li diễn ra ở một nơi biên giới ảm đạm, heo hút: ải Bắc, mây sầu, gió thảm, hổ thét, chim kêu,… Biên ải là nơi tận cùng của đất nước. Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây là điểm cuối cùng để rồi chia biệt vĩnh viễn với tổ quốc, quê hương.
- Hoàn cảnh và tâm trạng nhân vật: Hoàn cảnh thật éo le: Cha bị giải sang Tàu, không mong ngày trở lại, con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu, nhưng cha phải dằn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Đối với hai cha con, tình nhà, nghĩa nước đều sâu đậm, da diết và đều tột cùng đau đớn, xót xa: nước mất, nhà tan, cha con li biệt,… Cho nên máu và lệ hòa quyện là sự chân thật tận đáy lòng, không có chút sáo mòn nào cả.
Trong bối cảnh không gian và tâm trạng như thế, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động và có sức truyền cảm mạnh hơn bao giờ hết, khiến người nghe phải khắc cốt ghi xương.
4. Phân tích 20 câu thơ tiếp theo
– Tâm sự yêu nước của tác giả thể hiện qua những tình cảm:
- 4 câu thơ đầu: Tác giả tâm sự về truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam. Nguồn gốc là giống Hồng Lạc, lịch sử mấy ngàn năm, có lãnh thổ và con người là những anh hùng hiệp nữ. Qua lời tâm sự này, Nguyễn Phi Khanh muốn người con trai tự hào về quê hương, dân tộc; ông muốn bồi đătp thêm lòng yêu quê hương đất nước cho người con.
- 8 câu thơ tiếp theo tác giả viết về tình cảnh của đất nước và tội ác của giặc Minh: Đất nước đang trong tình cảnh tang thương bốn phương khói lửa bừng bừng, giặc Minh đến làm cho thành tung quách vỡ, thảm họa xương rừng máu sông, người người thì phải li biệt bỏ vợ lìa con,… Qua những câu thơ này, người cha muốn con thấu hiểu được tình cảnh thống thiết, đau thương của đất nước, qua đấy dấy lên nỗi niềm căm thù tột độ đối với giặc Minh.
- 8 câu thơ tiếp, tác giả khắc họa nỗi niềm của người cha trước tình cảnh nước mất nhà tan. Đó là nỗi đau xé tâm can, sự uất ức, nỗi sầu, nỗi đau,… Người cha muốn con thấu hiểu được nỗi đau mất nước của cha, và cũng là của toàn bộ những người dân sống trong hoàn cảnh như thế này.
– Với những từ ngữ và hình ảnh thơ diễn tả cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc (kể sao xiết kế, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm), nhà thơ đã thể hiện một nỗi đau thương nước mất nhà tan thiêng liêng và cao cả. Nỗi đau thương này như đã vượt lên trên số phận của cá nhân để trớ thành nỗi đau của nước non, rung chuyển cả đất trời. Chính vì vậy mà giọng điệu đoạn thơ trở nên thống thiết, lâm li, thấm đẫm nỗi hờn căm phẩn uất, oán than, xót xa, cay đắng. Giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn của Á Nam Trần Tuân Khái có sức lay động rất lớn, đặc biệt là đối với nhừng tâm hồn đồng điệu đương thời.
5. Người cha nói đến cái thế bất lực của mình (tuổi già sức yếu, lỡ sa cơ, đành chịu bó tay, thân lươn) là để nhằm kích thích, hun đúc cái ý chí “gánh vác” của người con, làm cho lời trao gửi thêm sức nặng tình cảm:
“Giang sơn gánh vác sau này cậy con”