Phân tích sự thống nhất và vận động của cảm xúc trữ tình qua hai đoạn thơ Đất nước
Bài làm
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một trong số những bài thơ hay và tiêu biểu nhất trong thơ ca viết về đề tài đất nước. Yếu tố làm nên sự đặc sắc và sâu săc cho bài thơ chính là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. Sự thống nhất và vận động của cảm xúc trữ tình qua hai đoạn thơ: “Những người vợ nhớ chồng… đã hóa núi sông ta” và “Đất nước của Nhân dân… Đi trả thù mà không sợ dài lâu” chính là một minh chứng rõ nét cho điểm đặc sắc của thi phẩm.
Trước hết, chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước. Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc “cặp vợ chồng yêu nhau” mà đã “góp cho”, đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước.
- Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
- Cặp vợ chồng yêu nhau góp thêm hòn Trống Mái
Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp nên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn. Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Các từ ngữ: “đi qua còn… để lại”, “góp mình dựng” đã thế hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước:
- Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
- Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.
Ta bỗng thấy trong tim âm vang của những trang sử hào hùng, tinh thần yêu nước mãnh liệt cất lên từ những truyền thuyết xa xôi. Ấy vừa là chiến tích, vừa là chứng nhân cho một dân tộc anh hùng. Không chỉ thế, Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”, có sông Mã “bờm ngựa phi thác trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:
- Những con rống nằm im góp dòng sông xanh thẳm.
Rồi “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm’’ cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông bỉển lúa bốn mùa. Quảng Nam, Quáng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Châu Trinh Huỳnh Thúc Kháng., có núi An sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nghĩ về địa linh nhân kiệt mà nghĩ về người học trò nghèo về truyền thống hiếu học về tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. Đây chính là một điểm mới trong tinh thần Đất nước của nhân dân. Không chỉ có nhưng nhân tài được lưu danh trong sử sách, mà cả những cậu trò nghèo vô danh cũng góp mình xây dựng đất nước văn hiến ngàn đờinghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng.
- Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
- Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Ba Đen, Bà Điểm.
Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang. Bà Đen, Bà Điểm… ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những người dân nào đã góp tên”, đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào bắt sấu, bộ hổ… làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”.
Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân Dân. Các thi liệu – hình ảnh người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò . con cóc con gà, những người dân nào… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm., của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”, “góp mình”, “đã góp tên”… đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho, góp nên…) nhiều ý thơ mới mẻ.
Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm ngọt ngào. Từ cụ thể thơ được nâng lên tầm khái quát,tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:
- Và ở đâu trên khắp ruộng đông gò bãi
- Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha
- Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
- Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Ruộng đồng gò bãi… là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi… bất cứ ở đâu trên đất Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình tượng đất nước cùng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ, hoài bão cùa ông cha ta, tổ tiên ta mấy nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về cảm xúc. Vừa đĩnh đạc, hào hùng, vừa thiết tha, lắng đọng, vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ. Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “đằng đẵng”.
Không chỉ tạo nên dáng hình đất nước, nhân dân cũng chính là người làm nên những giá trị văn hoá muôn đời. Tác giả khái quát lại toàn bộ luận điểm “Đất nước của Nhân dân” và đưa ra suy tưởng mới mẻ về đất nước trong hai câu thơ:
“Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhân dân là những người giản dị, vô danh nhưng cũng chính là những người sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước. Một trong các giá trị văn hóa đặc sắc nhất kết tinh tâm hồn, tình cảm nhân dân chính là văn hóa dân gian, biểu hiện cụ thể từ các câu ca dao, câu chuyện truyền kì, thần thoại khai sinh loài người… Hai câu thơ với hai vế song song đã đưa ra định nghĩa về đất nước vừa giản dị, vừa độc đáo. Trong 4 câu thơ tiếp, Nguyễn Khoa Điềm đã cụ thể hóa tư tưởng đất nước của ca dao thần thoại bằng việc dựng lại những tác phẩm văn hóa dân gian. Qua đó, nhà thơ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
- “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
- Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
- Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
- Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Đó là những câu ca dao về tình yêu và lời ru, gợi tình yêu trong sáng và sắt son. Câu thơ “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi chính là muốn ngợi ca truyền thống tình nghĩa, thủy chung của người Việt. Tình cảm của con người Việt Nam là tình cảm trong sáng, thuần khiết chân thành và bền lâu. Câu thơ mượn ý của câu ca dao:
“Yêu em từ thuở nằm nôi
Mẹ em đi chợ ảnh ngồi anh ru”
Đó còn là “công cầm vàng” từ câu ca dao:
- “Cầm vàng mà lội qua sông
- Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Con người Việt Nam vốn mạng trong mình đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó, đức tính này đã đi sâu vào trong tiềm thức, trong nếp sống sinh hoạt của mọi người. Vàng tuy quý giá nhưng cũng không thể so bằng sự vất vả, công sức của người lao động. Bởi vậy ông cha ta vẫn thường hay nói “của một đồng, công một lạng”. Đó còn là tinh thần chống giặc bất khuất, kiên cường của nhân dân qua hình ảnh cây tre. Nhân dân ta tuy nghèo khó, luôn phải đối mặt với những cuộc chiến vệ quốc, với kẻ thù hùng mạnh, với vũ khí tối tân, bằng “cây tre” một vũ khí thô sơ, mộc mạc. Điều đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta chính là sự kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, nồng nàn. Đó đều là những đức tính quý báu của dân tộc.
Ta có thể thấy được sự vận động trong cảm xúc trữ tình của tác giả qua hai đoạn thơ. Đó chính là tư tưởng Đất nước của nhân dân bao trùm – một tư tưởng mới mẻ khi nhìn về đất nước. Nhân dân – chẳng phải là những anh hùng, nhân tài được lưu danh trong sử sách, mà chỉ là những con người giản dị, vô danh – đã làm nên đất nước. Họ không chỉ tạo nên dáng hình của quê hương xứ sở – bề rộng, bề cao – kiến tạo những đặc điểm địa hình mà họ còn vun đắp cho bề dày, bề sâu văn hoá.
Nguyễn Khoa Điềm đã đa kết hợp các đặc sắc nghệ thuật như kho tàng tri thức, sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đằm thắm…. Hai khổ thơ cũng như toàn bộ bài thơ “Đất Nước” đã mang đến những cảm nhận không lẫn về đất nước cùng tư tưởng tiến bộ. Bài thơ không chỉ có giá trị thức tỉnh thời bấy giờ mà còn là lời nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và mai sau.