Soạn bài tổng kết phần văn lớp 8
Hướng dẫn
A.YÊU CẦU
-Bước đầu củng cố, hệ thống hóa kiến thức văn học qua các văn bản đã học trong SGK lớp 8 (trừ các văn bản tự sự và nhật dụng), khắc sâu những kiến thức cơ bản của những văn bản tiêu biểu.
-Tập trung ôn tập kĩ hơn cụm văn bản thơ (các bài 18, 19, 20, 21).
B.GỢI Ý TRÀ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP
Bài tập 1. Lập bảng thống kê các văn bản văn học Việt Nam đã học từ bài 15 ở lớp 8 theo mẫu sau: (SGK, t.2, tr. 130)
Gợi ý
Bài tập 2. Nêu lên sự khác biệt nổi bật về hình thức nghệ thuật giữa các văn bản thơ tronç các bài 15, 16 và trong các bài 18, 19. Vì sao thơ trong các bài 18, 19 được gọi là “thơ mới”? Chúng “mới” ở chỗ nào?
Hãy chép lại những câu thơ em thích nhất, cho là hay nhất trong 4 bài thơ kể trên, chọn mỗi bài từ 2 đến 4 câu.
Gợi ý
Ba vãn bản thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Đập đá ở Côn Lôn và Muốn làm thằng Cuội trong các bài 15, 16 đều thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đây là một thể thơ điển hình về tính quy phạm của thơ cổ, số câu, số chữ được hạn định, luật bằng trắc, phép đối, quy tắc gieo vần đều theo một quy định rất chặt chẽ.
Ba văn bản thơ Nhớ rừng, Ônq dồ, và Quê hươnq trong các bài 18, 19 thì khác hẳn. Tuy ba bài thơ vẫn tuân thủ theo một số quy tắc như: số chữ trong các câu bằng nhau (Nhớ rừng, Quê hương tám chữ; Ông đồ năm chữ), đều có vần (liên tiếp hoặc gián cách) và có nhịp điệu nhưng so với thơ cổ ihì hình thức linh hoạt, phóng khoáng, tự do hơn nhiểu. Ba bài thơ này được gọi là “thơ mới”.
Thơ mới cũng có luật lệ quy tắc nhất định nhưng không quá chặt chẽ tới mức gò bó như thơ cổ. Trong thơ mới, số lượng câu thơ trong một bài không hạn định, lời thơ tự nhiên gần với lời nói thường, hình ảnh thơ không có tính chất ước lệ, không có công thức khuôn sáo, cảm xúc của nhà thơ được phát biểu một cách chân thực.