Home / Văn mẫu THPT / Văn mẫu lớp 10 / Hướng dẫn phân tích tác phẩm Cảnh Ngày Hè – Ngữ văn 10

Hướng dẫn phân tích tác phẩm Cảnh Ngày Hè – Ngữ văn 10

Hướng dẫn phân tích tác phẩm Cảnh Ngày Hè – Ngữ văn 10

Hướng dẫn

CẢNH NGÀY HÈ

(Bảo kính cảnh giới – bài 43)

Nguyễn Trãi

I.KIẾN THỨC CƠ BẢN

1.Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, quê gốc tại làng Ngái (Chi Ngại), huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ông mất ngày 19 – 9 – 1442, tức 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba, trong vụ án Lệ Chi Viên (tức vụ án Trại Vải, huyện Gia Lương, nay thuộc Bắc Ninh), vụ án tru di tam tộc oan khốc nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ông là nhà văn hoá, nhà thơ lớn của dân tộc, người mở đầu cho sáng tác thơ Nôm ở Việt Nam. Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ đặc sắc trong tập Quốc âm thi tập, một tập thơ Nôm được xem là cổ nhất.

2.Quốc âm thi tập

-Là tập thơ Nôm sớm nhất còn lại đến hôm nay. Nó là một “bông hoa nghệ thuật đầu mùa” của thơ ca tiếng Việt.

-Về nội dung, Quốc âm thi tập phản ánh vẻ đẹp con người Nguyễn Trãi (lí tưởng nhân nghĩa; lòng yêu nước, thương dân; tình yêu thiên nhiên, quê hương, con người, cuộc sống,…)

-Về nghệ thuật, tác giả Quốc âm thi tập vận dụng một cách thành thục thể thơ thất ngôn đường luật của Trung Quốc. Tuy nhiên, có chỗ Nguyễn Trãi lại chen vào một số câu thơ lục ngôn thích hợp (một sự phá cách trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ).

3.Bài thơ Cảnh ngày hè thể hiện vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi. Bài thơ mang vẻ đẹp bình dị, tự nhiên, có sự đan xen câu lục ngôn (sáu chữ) và bài thơ thất ngôn (bảy chữ).

II.HƯỚNG DẪN HỌC BÀI.

1.Miêu tả cảnh ngày hè, tác giả đã sử dụng các động từ, tính từ, từ láy giàu sức gợi hình tượng và cảm giác. Ở câu 2, 3, 4, 5, 6 là các từ: đùn đùn, giương, phun, đỏ, tiễn, lao xao, dắng dỏi. Từ đùn đùn gợi tả sắc xanh thẫm của tán hoè lớp lớp, liên tiếp tuôn ra, giương rộng ra; từ phun gợi sự nổi bật, bắt mắt của màu đỏ hoa lựu; tiễn (ngát, nức) gợi tả sức lan toả của hương sen; từ lao xao, dắng dỏi đảo lên trước chợ cá, cầm ve làm nổi bật âm sắc rộn ràng, râm ran rất riêng của mùa hè. Dưới cái nhìn của tác giả, những sự vật vốn tĩnh trở nên động. Chuyển tĩnh thành động, sự cảm nhận cảnh ngày hè của nhà thơ bộc lộ rõ tình yêu sự sống sinh sôi, cái động của thiên nhiên, cảnh vật phản ánh cái động trong lòng người.

2.Cảnh ở đây có sự hài hoà giữa âm thanh và màu sắc, cảnh vật và con người.

Cảnh ngày hè hiện ra thật đẹp, đầy sức sống với những chi tiết cụ thể, sinh động: tán hoè xanh thẫm che rợp, thạch lựu bên hiên nhà còn phun màu đỏ, sen hồng trong ao át mùi hương, tiếng lao xao vọng lại từ làng chài, tiếng ve như tiếng đàn vang dội lên. Bức tranh cho thấy sức sống sinh sôi, rạo rực khắp nơi nơi.

Bức tranh ngày hè sinh động không những được gợi tả bằng hình ảnh màu sắc, âm thanh, sự chuyển động tinh tế của sự vật mà còn thể hiện ở nhịp điệu, tiết tấu. Với đặc điểm về số câu (8 câu), cách gieo vần (cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8), lối đối ngẫu ở hai liên giữa (cặp câu 3 – 4, 5 – 6) thì vẫn thấy đây là bài thơ thất ngôn bát cú. Nhưng bài thơ có một số điểm khác so với thất ngôn bát cú Đường luật:

-Câu 1 và câu 8 chỉ có sáu chữ nên chúng thành những câu độc lập, không gắn với câu 2 và câu 7 thành liên như thể thơ Đường luật.

-Đa dạng hơn về nhịp điệu: Câu 1: 1 / 2 / 3

Câu 2: 4/3 (hoặc 1/3/3)

Câu 3: 3/4 ‘

Câu4: 3 /4 Câu 5: 2/2/3 Câu 6: 2/2/3 Câu 7: 3/4 Câu 8: 3/3.

Sắc thái của cảnh vật trong bức tranh về sự sống mùa hè đã cho thấy tâm trạng phấn chấn trước vẻ đẹp của cuộc sống đã “phá vỡ” cái tĩnh tại của cuộc sống nhàn dật thuần tuý, qua đó bộc lộ niềm quyến luyến, thiết tha lớn với cuộc đời. Nỗi lòng của nhà thơ đối với đời, với cuộc sống nhân dân hiện ra rõ nét ở hai câu cuối bài. Ông nói đến cây đàn của Ngu Thuấn với mong ước thanh bình, no đủ cho muôn dân. Niềm tha thiết, gắn bó với đời được cụ thể bằng niềm mong mỏi giàu đủ cho nhân dân. Ngay cả trong không gian nhàn dật, ý thức nhập thế, giúp đời luôn thường trực trong tâm hồn Nguyễn Trãi.

Xem thêm:  Bình giảng bài “Côn sơn ca” của Nguyễn Trãi

Cảnh và tình trong bài thơ được kết hợp hài hoà. Tả cảnh ngày hè, bài thơ là một bức tranh tràn đầy sức sống. Sức sống của sự vật trong bức tranh tả cảnh mùa hè cũng thể hiện cảm xúc, niềm yêu đời trong tâm hồn nhà thơ. Cảnh gợi cảm xúc, cảm xúc chi phối cái nhìn và tái hiện cảnh vật.

3.Cảnh vật một buổi chiều cuối hè sinh động, đáng yêu và đầy sức sống nói trên đã được nhà thơ đón nhận bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác và cả sự liên tưởng cùa mình. Với thị giác, nhà thơ cảm nhận được sắc màu hoè lục thức đỏ,… Với khứu giác, nhà thơ cảm nhận được mùi hương. Với thính giác, nhà thơ lắng nghe dắng dỏi cầm ve. Điều cần chú ý là hồn thơ Nguyễn Trãi đã hoà hợp màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật của cái đẹp trong hội hoạ, trong âm nhạc, khiến bức tranh thiên nhiên ở đây vừa có màu sắc vừa có hồn, đầy gợi tả và lắng sâu. Thi nhân có sự đồng cảm với thiên nhiên vừa mãnh liệt vừa sâu sắc.

4.Tấm lòng yêu nước thương dân của Ức Trai (2 câu cuối).

-Khát vọng: có cây đàn của vua Ngu Thuấn để ca ngợi đời thái bình, dân no ấm.

(Liên hệ câu: Vua Nghiêu, Thuấn; dân Nghiêu, Thuấn – Dường ấy ta đà phi sở nguyền.)

-Tấm lòng yêu nước thương dân: nhân dân là món nợ suốt đời, công thành nhưng thân không thoái; thân nhàn, ngôn nhàn mà tâm không nhàn.

-Ước mong cao quí của một bậc hiền nhân. Lấy chuyện xưa để nói nay, khao khát thấy cảnh đời no ấm, của nhân dân, dám mong bệ hạ rũ lòng thương, chăm lo tới muôn dân, sao cho nơi hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu. Đó là gốc của nhạc.

(Liên hệ với bài Mao Ốc vị thu phong sở phá ca của Đỗ Phủ – muốn có một ngôi nhà rộng trăm ngàn gian che khắp cho kẻ sĩ trong thiên hạ, riêng mình chịu đói rách cũng được. Tấm lòng của bậc tri giả đời nào cũng vậy, luôn đau đáu vì dân vì nước.)

5.Cảm hứng chủ đạo của bài thơ này là lòng yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống và nhất là khát vọng về cuộc sống thái bình hạnh phúc cho muôn dân. Lấy cảnh mùa hè làm nền, nêu bật những nét đẹp, nét vui trong đó và sau cùng là bộc lộ sự trăn trở, dày vò, ước ao một viễn cảnh hạnh phúc ấm no cho muôn dân của nhà thơ. Ngần đó đủ để cho thấy vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi lúc nào cũng nặng lòng với đất nước muôn dân.

III.LUYỆN TẬP

1.Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ.

Bài viết tham khảo:

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi hiện gồm 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong Quốc âm thi tập không có nhan đề. Đây là bài thơ số 43 trong “Bảo kính cảnh gịới”. Các bài thơ trong ‘”Bảo kính cảnh giới” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, nhưng bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị. Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca úc Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê sơ, thế kỉ XV. Nó nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Xem thêm:  Hướng dẫn phân tích Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết – Ngữ văn 10

Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cảnh sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên: “Rồi hóng mát thuở ngày thường”. Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô quen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, úc Trai không bị ràng buộc bởi vòng “danh lợi” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường” là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, thong thả, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày dài rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưõng tinh thần. Ta có thể phán đoán Úc Trai viết bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh hè làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc. Hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màn hoè. Lá hoè xanh thầm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống: “Hoè lục đùn đùn tán rợp giương”. Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân. ngõ, vườn nhà, “giương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp giương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và hình tượng. Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê: vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hoè” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân hoè đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình”. Trong thơ ức Trai, hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà: “Có thuở ngày hè trương tán lục – Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”. Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “‘Thức” tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phun” được dùng rất hình tượng và thần tình. “Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỉ từ Quốc âm thi tập đến Truyện Kiều, vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quí sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó! Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”’ “Tiễn” là ngát (tiếng cổ). Sen hồng nở thắm ao làng, hương thơm toả ngát. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Sen trong ao làng đã “tiễn mùi hương” gợi khung cảnh làng quê thanh bình, không khí thanh cao thoát tục. Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp và cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng nhiều giác quan. Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao” của đời thường:

Xem thêm:  Soạn bài lớp 10: Luyện tập trình bày một vấn đề

Câu 5, 6:

‘‘Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

Sau khi tả hoè màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tiễn mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân đã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hoà điệu với tiếng lao xao chợ cá là tiêng ve vang lên rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng dỏi” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buôi xế chiều trở nên náo động rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dượng) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè noi thôn dã:

“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

Trở về ‘‘Côn Sơn quê cũ” Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với ức Trai, nó đã trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời. Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

“Dẽ có” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có….”. Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu, Thuấn là hai ông vua thòi cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ, Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc “Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có. Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người úc Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hoà bình, hạnh phúc của dân tộc: Trong thơ Úc Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng mạnh mẽ:

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”

(Thuật hứng – số 5)

Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua nhũng vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.

(Sưu tầm)

2.Học thuộc bài thơ.

XEM THÊM HƯỚNG DẪN TÁC PHẨM TỎ LÒNG – NGỮ VĂN 10 TẠI ĐÂY

Theo Baivanhay.com

Check Also

nu sinh dak lak xin1115 040129 310x165 - Nghị luận xã hội về lòng vị tha

Nghị luận xã hội về lòng vị tha

Đề bài: Nghị luận xã hội về lòng vị tha Bài làm Từ xa xưa, …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *