Home / Văn mẫu THPT / Văn mẫu lớp 11 / Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh

Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh

Đề bài: Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh

Bài làm

Có lẽ danh lam thắng cảnh nào cũng sẵn sàng ban tặng cho con người muôn vàn tứ thơ. Nhưng không phải danh thắng nào cũng được đền bù xứng đáng. Có biết bao cảnh trí thần tiên chẳng cần đợi thơ ca tôn vinh – tự nó đã làm một bài thơ tuyệt mĩ. Ở những trường hợp như thế phải chăng thơ ca đã trở nên bất lực? Nhưng cũng có những thắng cảnh vốn đã mĩ lệ, lại được soi mình vào thơ thì càng quyến rũ bội phần. Khi ấy, cảnh thì dâng hiến cho thơ hào phóng, còn thờ dường như cũng trả xong món nự của mình. Trường hợp phong cảnh Hương Tích với Chu Mạnh Trinh chẳng phải là như thế sao? Hương Sơn được vào hàng “Nam thiên đệ nhất động”. Còn Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh cũng đáng là một áng thơ long lanh như gấm dệt. Có thể gọi là “Hương Sơn đệ nhất thi” được chứ sao? Thơ ca và thắng cảnh đâu phải lúc nào cũng được đẹp duyên như thế!

Phải nói ngay rằng âm nhạc đã góp phần tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của bài thơ này. Bình thường, bài thơ chân chính nào cũng có một nền nhạc riêng của nó, cho dù nó được viết lối tự do hay theo cách luật. Nhưng khi một thi sĩ lại chủ động viết theo thể hát nói, thì rõ ràng nhạc điệu (gồm cả của âm nhạc lân của ngôn ngữ) càng muốn giành lấy địa vị tiên phong. Có thế thấy khá rõ lời thơ chập chờn, chấp chới bay trong nhịp điệu, còn nhạc điệu như đang đìu từng lời thơ bay lượn trong cái thế giới trong lành, thanh tịnh của chốn Hương Sơn. Tất cả cứ lâng lâng chơi vơi, cứ khoan hòa dìu dặt như cái nhịp chèo, nhịp bước của du khách càng ngày càng nhập sâu vào lòng cảnh trí thanh vắng, mơ màng, vừa trần gian, vừa thoát tục. Nếu như đang nghe lời thơ được hát ngâm theo thế thức ca trù, với lối ngàn rung, buông bắt, với tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống điểm nhịp rất riêng thì tất cả giọng ngất ngây, khoan khoái của một tâm hồn đang ân thưởng cái “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay” càng có dịp tràn ra đầy đủ. Vâng, chọn hát nói để phô bày những cảm xúc Hương Sơn của mình, dường như hồn thơ của Chu Mạnh Trinh đã gửi mình đúng chỗ. Vậy là thơ và nhạc đã được Hương Tích xe duyên nên thi phẩm này. Chẳng phải đây cũng là một nét duyên nữa của Hương Sơn phong cảnh ca đó ư?

Xem thêm:  Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

Nếu người nghệ sĩ cảm nhận danh thắng Hương Sơn cũng như Bồng Lai hay Thiên Thai, Từ Thức…, thì xem như chưa bắt được cái “thần” cùa chốn này. Những nơi kia là cảnh tiên, là chốn mộng mơ tình tứ, hứa hẹn những mối phong tình lãng mạn. Còn Hương Sơn khác! Hương Sơn là cảnh bụt, là nơi du khách tìm đến văn cảnh nhưng cũng để hành hương. Con người đến đây để thưởng ngoạn một danh lam, nhưng cũng là một dịp dọn lòng khỏi những tục lụy để mà thanh lọc tâm hồn, thanh thản tâm linh. Vì thế, thắng cảnh Hương Sơn thơ mộng mà linh thiêng, quyến rũ mà thanh tịnh, mĩ lệ nhưng bàng bạc vị thiền. Thi nhân có nhận ra điều đó, mới là thấm canh Hương Sơn. Hồn thơ phải dồi dào sự đắm say nhưng cũng không thể thiếu thành kính. Có như thế mới đồng điệu được với Hương Sơn. Và may thay, Hương Sơn phong cảnh ca của Trúc Vân Chu Mạnh Trinh đã thu được vào từng lời thơ cái hồn riêng của cảnh.

Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ ngắn với bốn tiếng

Bầu trời cảnh bụt

Toàn bài đều viết bằng những câu dài với 7 hoặc 8 tiếng. Duy có câu mở đầu này là ngắn đặc biệt. Cái hình thức kia đâu phải ngẫu nhiên. Câu thơ vẽ không gian, nhưng vang lên như một vỡ lẽ kì thú của chốn nước non này: Đây là thế giới của cảnh bụt. Câu thơ bốn tiếng khác nào như mỡ ra một cổng trời, một miền non nước, một thế giới, mà ở trên trán v,m cổng ấy khắc bốn chữ giới thiệu du khách về cái xứ sở sắp bước vào. Kia là thuộc về cảnh bụt. Nó không phải là đất Phật như Tây Trúc, nhưng canh sắc ở đây đều thuộc về bụt, đều ngấm vị thiền.

Và bốn tiếng ấy dường như cũng đã xác định chủ âm của bài thơ. Bắt đầu từ đây ngòi bút của Chu Mạnh Trinh sẽ chuyển động theo cảm hứng ấyvà  làm sống dậy từng nét thanh tú của danh lam, vừa đem lại vi thiền cho thắng cảnh. Toàn bộ bài thơ được kết cấu theo các lớp cảnh cứ dần dần mở ra cùng với bước chân của du khách, thì ở lớp cảnh nào thi hứng của Chu Mạnh Trinh, cũng được khơi từ hai nguồn ấy. Đây là cái nhìn lướt bao quát:

Xem thêm:  Những câu nói thất tình buồn chạm đến tận cùng nỗi đau

Kìa non non, nước nước, mây mây,

Cảnh non nước đã được điệp trùng, luyến láy theo cái lối đặc trưng của ca trù, khiến cho cảnh non nước, mây trời vừa có được vẻ quấn quýt lại vừa trái dài như vô tận. Giọng điệu thơ có cái vẻ náo nức, ngất ngây của người dược thỏa lòng ao ước, lại cũng nghiêm trang chứ không hẳn là đong đưa tình tứ. Câu chữ như thế thật tài hoa và cũng thật tự nhiên!

Phần lớn những nơi được xem là danh thắng đều là chốn sơn thủy hữu tình, có núi non, có rừng suối, với những chim bay, cá lượn. Hương Sơn cũng thế! Nhưng Hương Sơn là cảnh bụt, cho nên:

Thỏ thể rừng mai chim cúng trái,

Lửng lơ khe Yến có nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình,

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Chim ở đây dường như đã quên mình là chim, cá ở đây đã quên mình là cá. Tự bao giờ chúng đã thành những tín đồ. Có phái bầu không khí bao trùm lên Hương Sơn là không khí thiền – vị thiền tan vào rừng mơ, vị thiền đã hòa vào suối Yến mà chim cá ở đây nhiễm vào minh Phật tinh? Hay sống trong cảnh bụt, ngay đến chim, cá cũng thanh lọc, cùng được khơi dậy cái cốt cách bụt kia chăng? Du khách từ cái thế giới đầy biến động vào đây dường như cũng bừng ngộ, nghĩa là cũng nhập vào làm một với cảnh bụt chốn này. Tiếng chim “thỏ thẻ“, dáng cá “lửng lư” và giờ đây là “tiếng chày kình”… Những âm thanh, dáng diệu ấy tạo nên cái bầu không khí rất Hương Sơn. Chim cúng trái, cá nghe kinh, con người đi vào cảnh thảng thốt với tiếng chày kình… Tất cả đều cời bò hệ lụy trần gian, đang hòa nhập vào không khí linh thiêng. Tại khoảnh khắc ấy cả chim, cả cá, cả người đều dường như đang thoát tục. Làm sao Chu Mạnh Trinh có thể viết được như thế? Cái sinh khí Hương Sơn vô hình là thế, vậy mà thi nhàn đã thấy nó hiện hình trong tất cả, hòa nhập vào tất cả, hòa tan trong tất cả! Có lẽ chỉ với những hình ảnh như thế thôi, cái thần thái của Hương Sơn đã nhập vào thơ rồi!

Xem thêm:  Phân tích hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ qua Tự Tình II và Thương vợ

 Thế rồi, thi sĩ cứ say sưa thưởng ngoạn cảnh Hương Sơn như một tạo tác nguy nga, mĩ lệ của tạo hóa bày ra sống động dưới trời Nam bằng lối kể điểm danh những địa đanh nổi tiếng của Hương Sơn:

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Vũng

 Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh

Những từ “này” để trỏ liên tiếp gợi sự phong phú, gợi thê liên hoàn, lại gợi được cả cái cảm xúc được ân thưởng thỏa thuê. Cảnh sắc thật giàu có, đủ cả suối, chùa, am, động… tất cả cứ như bày đặt ra theo bước du khách. Chu Mạnh Trinh lại kết hợp cả lối tạo hình với những nét vừa mĩ lệ vừa hư huyền, với những màu vừa lộng lẫy vừa cách điệu, với những mảnh vừa trầm tĩnh vừa biến ảo. Trong dăm ba câu mà ta thấy được con mắt tạo hình của thi sĩ lúc ngây ngất ngước lên, khi mải mê nhìn xuống, vừa nắm bát cái bóng nguyệt lồng trong thăm thẳm tầng hang, đã đuổi theo những thang mây lượn cùng vách núi:

Nhác trông lên ai khéo họa hình,

 Đá ngũ sắc Long lanh như gấm dệt.

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

Với những câu thơ này, du khách đường như đã đặt những bước chân cuối cùng vào chốn Hương Sơn.

Tuy nhiên, thú Hương Sơn chưa phải đã hết.

Nếu như tiếng chày kình động tiếng chuông Hương Sơn mới đánh thức người khách tang hải trong cái giấc mộng lớn của cuộc đời, thì đến đây cuộc hành hương mới kết thúc. Ấy là cái khoảnh khắc thi nhân quên mình là thi sĩ để mà sống trong phút giây cái nỗi niềm Phật tử:

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,

Cửa từ bi công đức, xiết là bao

Kẻ vãn cảnh đã cởi bỏ lốt tục lấm bụi trần ai để tâm hồn chan hòa với chốn này. Vẻ đẹp của thắng cảnh, vị thiền của danh lam đã hòa nhập kẻ vãn cảnh với người hành hương trong cái trạng thái tâm linh thanh cao và yên tịnh ấy. Sức quyến rũ cuối cùng của Hương Sơn dường như ở đấy!

Check Also

top 10 anh hot girl hoc sinh cap 2 viet 8 310x165 - Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Đề bài: Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Bài …

Home / Văn mẫu THPT / Văn mẫu lớp 11 / Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh.

Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh.

Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh.

Hướng dẫn

Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh.

DÀN Ý CHI TIẾT

I Mở bài

Hương Sơn là dãy núi ớ huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây. Trên núi là quần thể những suối, chùa, am, động, trong đó có chùa Hương thờ Phật Bà Quan Thế Âm. Tương truyền, khi chúa Trịnh Sâm đến nơi đây đã khắc vào vách đá cửa động Hương Tích dòng chữ “Nam thiên đệ nhất động”, nghĩa là động đẹp nhất trời Nam. Với vẻ đẹp của một danh lam thắng cảnh, động Hương Sơn đã trở thành nguồn thi hứng cho biết bao thi nhân. Dương Lâm có Chơi chùa Hương, Tản Đà có Động Hương Sơn, Nguyễn Nhược Pháp có Chùa Hương… Riêng Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905) có tới ba bài: Hương Sơn phong cảnh ca, Hương Sơn nhật trình và Hương Sơn hành trình. Cả ba bài thơ đều được sáng tác khi ông tham gia vẽ kiểu và trùng tu lại chùa Thiên Trù. Trong ba tác phẩm viết về Hương Sơn của ông, bài Hương Sơn phong cảnh ca có giá trị nhất.

II. Thân bài

1. Thể loại, bố cục:

– Nếu Hương Sơn nhật trình và Hương Sơn hành trình được viết theo thể lục bát thì bài Hương Sơn phong cánh ca được viết theo thể hát nói.

– Thông thường một bài hát nói gồm 11 câu chia làm 3 khổ, riêng bài thơ này có tới 19 câu, gọi là dôi khổ. Theo cuốn Nhà thơ Chu Mạnh Trinh của Lê Văn Ba, bài thơ còn có mở đầu là hai cặp câu lục bát:

Lên chùa chân bước khoan khoan

Khi nam mô Phật, khi tang tang tình.

Thuyền nan một lá xinh xinh,

Non non, nước nước, mình mình, ta ta…

– Bài thơ được kết cấu theo thế hát nói song người đọc cùng dễ dàng nhận ra diễn biến tâm trạng của thi nhân thể hiện trong tác phẩm, đi từ ấn tượng chung về cảnh Hương Sơn đến tả thực cảnh đẹp và cuối cùng là những suy nghĩ về giang sơn đất nước.

Xem thêm:  Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

2. Khổ đầu (4 câu):

Bầu trời cánh Bụt.

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.

Kìa non non, nước nước, mây mây,

“Đệ nhất động” hỏi là đây có phải?

– Bầu trời cánh Bụt, bốn từ đã gợi cho người đọc cảm giác đến một nơi thần tiên thoát tục, không gian mênh mông thanh khiết.

– Hương Sơn đẹp còn bởi khung cảnh hùng vĩ của núi non trùng điệp. Nhịp 2/2 và điệp từ non non, nước nước, mây mây, như bày ra một quần thể núi non sông nước hang động trập trùng, vốn là nét độc đáo của nơi này.

– Giọng điệu câu thơ thể hiện vẻ ngạc nhiên thích thú, niềm sung sướng thỏa mãn khi được đến một nơi nổi tiếng:

Thủ Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.

“Đệ nhất động” hỏi lờ đây có phải?

Câu hỏi và cách nhắc lại lời người xưa để khẳng định một lần nữa vẻ đẹp của Hương Sơn.

– Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc niềm thú vị trước một nơi vừa thanh cao mang màu sắc tôn giáo, vừa là một thắng cảnh đẹp của đất nước. Người ngắm cảnh không chỉ là tín đồ hành hương mà còn là du khách yêu cảnh thiên nhiên, yêu đất nước, một thi nhân dào dạt cảm xúc. Bốn câu thơ đầu giới thiệu về cảnh và người vừa tự nhiên vừa khéo léo.

3. Khổ giữa (12 câu):

– Ở khổ giữa, nhà thơ tả thực cảnh theo hành trình bước chân du khách. Bắt đầu từ bến Đục, con đò dọc đưa khách xuôi theo khe Yến. Hai bên bờ suối là rừng mai trải dài. Trong thiên kí sự của cô bé mười lăm tuổi, Nguyễn Nhược Pháp đã tả cảnh khe Yến rừng mai thật hữu tình:

Thuyền đi, bến Đục qua.

Xem thêm:  Những câu nói thất tình buồn chạm đến tận cùng nỗi đau

Mỗi lúc gặp người ra,

Thẹn thùng em không nói:

Nam mô A di đà

Réo rắt suối đưa quanh,

Ven bờ, ngọn núi xanh,

Dịp cầu xa nhỏ nhỏ:

Cảnh đẹp gần như tranh.

Còn Chu Mạnh Trinh lại cảm nhận cảnh vật ở không khí thanh khiết không nhuốm bụi trần:

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.

Vẳng bên tai một tiếng chày kình,

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Tang hải là từ vốn để chỉ sự đổi thay của cuộc đời, hoặc chỉ cõi đời trần tục biến đổi vô thường. Vì thế, nghe tiếng chày kình, khách tang hải giật mình trong giấc mộng có thể hiểu, người khách đến đây, trong không khí thần tiên thoát tục, bỗng thấy tâm hồn được thanh lọc, nhận ra cuộc đời đầy dâu bể đa đoan, nhận ra cuộc đời là một giấc mộng phù du. Cảnh đẹp Hương Sơn, vì thế càng giàu ý nghĩa.

– Càng vào sâu, càng lên cao khách càng ngạc nhiên trước vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh:

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,

Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.

Điệp từ này, cách liệt kê các địa danh giúp người đọc hình dung ngay vẻ đẹp của một quần thể có cao thấp, có suối, chùa, hang, động, có thiên tạo lẫn nhân tạo. Nhà thơ không cần tả nhiều, chỉ tên gọi cũng đã tạo cho người đọc những tưởng tượng, liên tưởng phong phú, gợi cảm.

– Riêng đối với hang động ở Hương Sơn, nhà thơ không chỉ nêu tên mà dừng lại tả cụ thể, tỉ mỉ trong bốn câu:

Nhác trông lên ai khéo họa hình,

Đá ngủ sác long lanh như gấm dệt

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây

Đại từ “ai” được dùng ở đây diễn tả sự kinh ngạc trước vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên. Theo dân gian, trong hang động có hai ngả, đường lên trời và đường xuống âm phủ. Câu thơ tả thực mà vẫn lãng mạn với màu sắc, đường nét, ánh sáng và cảm giác huyền ảo, bồng bềnh như tiên cảnh. Cách dùng từ láy long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh; cách đảo ngữ thăm thẳm một hang, gập ghềnh mấy lối; hình ảnh so sánh lồng bóng nguyệt, uốn thang mây cho thấy tài nghệ điêu luyện của nhà thơ.

Xem thêm:  Phân tích hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ qua Tự Tình II và Thương vợ

– Chính trong khoảnh khắc ngưỡng mộ bàn tay của tạo hóa, nhà thơ đâ có cảm xúc và suy nghĩ về đất nước:

Chừng giang sơn còn đợi ai đây,

Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.

Giang sơn, trước hết là muốn nói đến cảnh Hương Sơn, là thiên nhiên tươi đẹp, sâu xa hơn là nói đến đất nước đang cần đến tấm lòng của con người. Câu thơ bày tỏ tình yêu nước thầm kín của nhà nho Chu Mạnh Trinh.

4. Khổ xếp (3 câu cuối):

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,

Cửa từ bi công đức biết là bao!

Càng trông phong cảnh càng yêu.

– Với hệ thống từ ngữ của đạo Phật, kết thúc bài thơ tác giả đưa ta trở về không khí thần tiên thoát tục của cảnh Hương Sơn, mang lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

– Câu thơ cuối là tâm trạng của nhân vật trữ tình. Ở đây ta không chỉ tìm thấy một nhà thơ sống phóng khoáng lãng tử, thoát ly hiện thực mà còn là một kẻ sĩ nặng lòng với đất nước.

III. Kết luận

– Chu Mạnh Trinh là nhà thơ lớn ở cuối thế kỉ XIX, nổi tiếng tài hoa, giỏi cả cầm kì thi họa, nhất là nghệ thuật kiến trúc. Chuyện kể lại, quan án Chu làm quan mà chẳng mấy để tâm đến xét xử, chỉ thích rong chơi đến cảnh đẹp của đất nước. Con người và tài năng ấy đã in dấu khá rõ trong bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca.

Nguồn: Tài liệu văn học

Theo Baivanhay.com

Check Also

1586828911 38 cuuheight990 310x165 - Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Đề bài: Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Bài …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *